Bệnh bại liệt: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Tổng quan về bệnh bại liệt

Bệnh bại liệt do virus cấp tính Polio gây ra và lây truyền qua đường tiêu hóa, từ phân – miệng và có thể phát triển thành dịch. Các dấu hiệu nhận biết của căn bệnh này là buồn nôn, sốt, mệt mỏi, táo bón,… Ngoài ra, bệnh còn dẫn đến mất nước, suy dinh dưỡng, liệt, teo cơ, viêm phổi. , khó thở và khiến cơ thể kiệt sức, dần dần tê liệt cơ hô hấp và tử vong.

Trước đây, hầu hết các châu lục đều có sự xuất hiện của căn bệnh này. Số người mắc và tử vong vì bệnh bại liệt đã tăng lên đáng kể trong những năm qua. Tuy nhiên, nhờ sự ra đời của vắc-xin bại liệt từ năm 1955 đến năm 1960, nó đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của bệnh bại liệt, đặc biệt là ở các nước phát triển.

Ở Việt Nam, từ năm 1957 đến năm 1959, đã có những dịch bệnh lớn trước khi có vắc-xin. Năm 1959, tỷ lệ bại liệt ở nước ta là 126,4/100.000 người, nhưng đến năm 1962 tỷ lệ này đã giảm đi rất nhiều và không còn dịch bệnh lớn nhờ ta sản xuất vắc xin thành công. Sanbin sống bại liệt giảm độc lực (OPV).

Sau năm 1975, Chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia được thành lập và đã bảo vệ gần như 100% trẻ em khỏi bệnh bại liệt thông qua vắc-xin. Cho đến năm 2000, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố Việt Nam đã chính thức thành công trong việc loại trừ bệnh bại liệt. Đây được xem là thành tựu có ý nghĩa to lớn đối với y học Việt Nam.

Nguyên nhân gây bại liệt

Nguyên nhân chính của bệnh bại liệt là virus bại liệt, thuộc chi Enterovirus và thuộc họ Picornaviridae. Hình dạng: hình cầu không có vỏ và chứa RNA. Virus này có 3 loại:

Loại 1: Tên là Brunhilde, chiếm 90% nguyên nhân;

Loại 2: Tên là Lansing;

Loại 3: Tên khoa học là Leon.

Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus bại liệt sẽ đến các hạch bạch huyết và một vài virus sẽ tấn công hệ thần kinh trung ương, gây ra các tế bào sừng ở tủy sống trước và các tế bào thần kinh vận động của tủy sống. vỏ não bị tê liệt.

Virus này có thể tồn tại trong một thời gian dài ở môi trường bên ngoài, ví dụ, chúng sống trong phân người trong vài tháng ở nhiệt độ 0 – 4oC, chúng có thể sống trong nước khoảng 2 tuần ở nhiệt độ bình thường. Ngoài ra, bại liệt còn chịu được tình trạng khô, cách tiêu diệt chúng là sử dụng thuốc tím hoặc loại bỏ virus ở nhiệt độ 56oC sau 30 phút.

Triệu chứng của bệnh bại liệt

Tùy thuộc vào loại bệnh, các triệu chứng sẽ khác nhau. Bệnh bại liệt được chia thành các loại sau dựa trên các triệu chứng lâm sàng:

– Liệt mềm cấp điển hình (chiếm 1%): Bệnh nhân bị sốt, đau đầu, chán ăn, buồn nôn, đau cơ tứ chi, lưng và cổ, mất khả năng vận động lâu dài dẫn đến liệt liệt. đáng. Mức độ tê liệt tối đa có thể là liệt tủy, liệt tủy sống dẫn đến suy hô hấp và cuối cùng là tử vong. Bệnh nhân sẽ gặp khó khăn trong việc vận động hoặc mất vận động nếu tê liệt ở chi không hồi phục;

– Dạng nhẹ: Người bệnh bị sốt, buồn nôn hoặc nôn, đau đầu, khó ngủ, táo bón, có khả năng hồi phục trong vòng vài ngày;

– Viêm màng não vô khuẩn: Biểu hiện là sốt, đau cơ, đau đầu, cứng cổ;

– Dạng ẩn: Không có triệu chứng rõ ràng, nhưng dạng nhẹ có thể tiến triển thành nặng.

Chỉ có khoảng 1% trường hợp bại liệt có triệu chứng tê liệt điển hình và căn bệnh này được coi là cực kỳ nguy hiểm, có thể dẫn đến tê liệt tủy sống hoặc cơ hô hấp, gây tử vong. tử vong cho bệnh nhân hoặc, nếu được cứu, để lại di chứng nghiêm trọng của tàn tật suốt đời.

Đường lây truyền bệnh

Bệnh bại liệt là một bệnh rất dễ lây lan lây truyền từ người sang người, chủ yếu qua đường phân-miệng. Hầu hết trẻ em sống trong cùng một hộ gia đình hoặc tiếp xúc với bệnh nhân bị nhiễm bệnh đều có nguy cơ cao nhiễm virus bại liệt.

Cụ thể, virus bại liệt truyền từ phân người, làm ô nhiễm nước và thực phẩm, và tấn công cơ thể con người qua đường tiêu hóa. Một số ít trường hợp lây truyền qua hầu họng.

Ngoài ra, bệnh bại liệt cũng có thể lây lan qua tiếp xúc với người khỏe mạnh với người mang virus hoặc người vừa tiêm vắc-xin bại liệt đường uống (vì đây là vắc-xin sống giảm độc lực). có nguồn gốc từ virus sống).

Từ 3 đến 35 ngày là thời gian ủ bệnh, các trường hợp bệnh nhân có triệu chứng tê liệt thể chất thường sẽ kéo dài từ 7 đến 14 ngày. Giai đoạn của các dấu hiệu lâm sàng sau khi nhiễm trùng sẽ xảy ra sau khoảng 7-10 ngày.

Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh bại liệt

Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh bại liệt bao gồm:

– Người tiếp xúc trực tiếp với chất thải của người nhiễm virus bại liệt;

– Người chưa tiêm vắc xin phòng bại liệt;

– Người đi du lịch đến vùng lưu hành dịch;

– Người có hệ miễn dịch yếu, sức đề kháng yếu: bị hội chứng suy giảm miễn dịch, căng thẳng lâu dài, làm việc với cường độ cao trong thời gian dài, đã cắt amidan trước đó;

– Người sử dụng nguồn nước, thực phẩm bị ô nhiễm.

Những người như phụ nữ mang thai, trẻ em (đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi), người già, người chưa được chủng ngừa bại liệt và những người có hệ miễn dịch suy yếu thường có nguy cơ cao nhất. bị nhiễm bệnh bại liệt.

Phòng chống bại liệt

Cục Y tế dự phòng – Bộ Y tế khuyến cáo người dân thực hiện tốt các biện pháp sau để chủ động phòng, chống bại liệt:

– Tiêm vắc xin bại liệt cho trẻ em dưới 5 tuổi ít nhất 3 lần theo hướng dẫn của Bộ Y tế;

– Cần nâng cao nhận thức cộng đồng về vệ sinh nơi công cộng, bao gồm vệ sinh cá nhân và vệ sinh nước, vệ sinh thực phẩm;

– Cần hình thành thói quen vệ sinh đồ vật, bề mặt, đồ chơi, bàn ghế, dụng cụ học tập, sàn nhà bằng xà phòng kháng khuẩn hoặc chất tẩy rửa;

– Người chăm sóc cần thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, đặc biệt là trong những khoảnh khắc trước và sau khi cho ăn và sau khi đi vệ sinh;

– Sử dụng nguồn nước sạch, không đi đại tiện bừa bãi. Phân của trẻ em cũng cần được nhặt, đổ vào nhà vệ sinh và làm sạch;

– Nếu trẻ ở nhà hoặc ở trường có các triệu chứng như buồn nôn, sốt, cứng cổ, đau cơ và tứ chi, liệt mềm cấp…, cần đưa trẻ đi khám và được điều trị kịp thời tại bệnh viện. bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất.

Các biện pháp chẩn đoán bệnh bại liệt

Bên cạnh việc quan sát các biểu hiện lâm sàng điển hình của bệnh như khó nuốt và thở, cứng lưng, cứng cổ, phản xạ bất thường…, cũng cần dựa vào các yếu tố sau để chẩn đoán như tiền sử tiêm chủng cũng như xét nghiệm phân lập virus bại liệt trong vòng 14 ngày kể từ ngày phát hiện virus trong phân, dịch hầu họng hoặc dịch não tủy của bệnh nhân.

Ngoài ra, cần loại trừ các nguyên nhân khác trước khi chẩn đoán như:

Bệnh nhân bị liệt do chấn thương;

Có hội chứng Guillain-Barré;

Tê liệt do viêm dây thần kinh;

Nhiễm virus EV7: Đây là nguyên nhân gây ra các bệnh tay – miệng và viêm não – viêm màng não;

Vi-rút Coxsackie và nhiễm ECHO với viêm màng não vô khuẩn kèm theo tê liệt.

Các biện pháp điều trị bại liệt

Trên thực tế, không có phương pháp cụ thể nào để điều trị bệnh bại liệt vì đây là bệnh truyền nhiễm do virus gây ra. Bản chất của điều trị bại liệt là điều trị hỗ trợ và triệu chứng:

Cung cấp cho bệnh nhân vitamin và chất lỏng để cải thiện sức khỏe của họ;

Nếu có dấu hiệu suy tủy, cần hỗ trợ hô hấp;

Thuốc: aspirin hoặc kháng sinh nếu bội nhiễm vi khuẩn xảy ra. Thuốc được sử dụng theo toa và hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa;

Phục hồi chức năng vận động và khắc phục di chứng cho người bệnh.