Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là điều quan trọng nhất chính là:
Ngừng tiếp xúc với yếu tố nguy cơ
Ngừng tiếp xúc với khói thuốc lá, thuốc lá ống, bụi, khói từ ống hút nhà bếp, củi, than, khí độc… Bỏ thuốc lá, thuốc lá ống
Cai thuốc lá là một biện pháp rất quan trọng để ngăn ngừa COPD trở nên tồi tệ hơn. Trong cai thuốc lá, tư vấn cho bệnh nhân đóng một vai trò quan trọng, và các loại thuốc hỗ trợ cai thuốc lá giúp bệnh nhân bỏ thuốc lá dễ dàng hơn.
Chiến lược khuyên bệnh nhân bỏ thuốc lá
– Tìm hiểu những lý do cản trở bệnh nhân bỏ thuốc lá: sợ không bỏ thuốc lá, hội chứng cai nghiện khó chịu, mất niềm vui hút thuốc, căng thẳng,…
Sử dụng lời khuyên 5A:
+ Hỏi – Hỏi: xem tình trạng hút thuốc của bệnh nhân để có kế hoạch phù hợp.
+ Tư vấn – Đưa ra lời khuyên phù hợp và đủ mạnh để thuyết phục bệnh nhân bỏ thuốc lá.
+ Đánh giá – Đánh giá: xác định nhu cầu cai thuốc lá thực sự của bệnh nhân.
+ Hỗ trợ – Hỗ trợ: giúp người bệnh xây dựng kế hoạch cai thuốc lá, tư vấn, hỗ trợ và kê đơn thuốc hỗ trợ cai thuốc lá nếu cần thiết.
+ Sắp xếp – Sắp xếp: có kế hoạch theo dõi, hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp để người bệnh có thể bỏ thuốc lá, tránh tái phát.
b) Thuốc hỗ trợ cai thuốc lá
Việc sử dụng các chất hỗ trợ cai thuốc lá giúp giảm bớt hội chứng cai thuốc và tăng tỷ lệ cai thuốc lá thành công. Thuốc có thể: thay thế nicotine, bupropion, varenicline.
– Thay thế nicotine.
Chống chỉ định tương đối ở bệnh nhân tim mạch có nguy cơ cao (nhồi máu cơ tim gần đây).
+ Dạng thuốc: xịt mũi, xịt họng, viên ngậm, viên nhai, miếng dán da.
+ Thời gian sử dụng ma túy phụ thuộc vào mức độ nghiện thuốc lá (mức độ phụ thuộc nicotine): thông thường từ 2-4 tháng, có thể lâu hơn.
+ Tác dụng phụ: gây kích ứng da khi bôi, khi dùng có thể gây khô miệng, nấc cụt, khó tiêu…
– Bupropion: tăng cường giải phóng noradrenergic và dopaminergic trong hệ thần kinh trung ương để giúp giảm ham muốn hút thuốc.
+ Không sử dụng cho bệnh nhân động kinh, rối loạn tâm thần, rối loạn hành vi ăn uống, dùng MAOIs, đang điều trị nghiện rượu, suy gan nặng.
+ Thời gian điều trị là 7-9 tuần, có thể kéo dài trong 6 tháng.
+ Liều cố định không quá 300 mg/ngày: Tuần đầu tiên: 150 mg/ngày uống vào buổi sáng; Từ tuần 2 đến tuần 9: 300mg/ngày chia làm 2 lần.
+ Tác dụng phụ: mất ngủ, khô miệng, đau đầu, kích động, co giật.
– Varenicline có tác dụng giảm triệu chứng khi cai thuốc lá và giảm hưng phấn khi hút thuốc.
Chống chỉ định tương đối trong suy thận nặng (giải phóng creatinine < 30ml/phút).
+ Thời gian điều trị là 12 tuần, có thể kéo dài đến 6 tháng.
+ Liều điều trị: Ngày 1 đến ngày 3: 0,5mg/ngày uống vào buổi sáng; Ngày 4 đến ngày 7: 1mg/ngày chia làm 2 lần sáng-chiều; Tuần 2 đến 12: 2mg/ngày trong 2 liều chia buổi sáng-chiều.
+ Tác dụng phụ: buồn nôn, rối loạn giấc ngủ, ác mộng, trầm cảm, thay đổi hành vi.
Tiêm vắc-xin chống nhiễm trùng đường hô hấp
– Nhiễm trùng đường hô hấp (cúm và viêm phổi…) là một trong những yếu tố nguy cơ làm trầm trọng thêm COPD. Tiêm chủng có thể làm giảm đợt cấp nghiêm trọng và giảm tỷ lệ tử vong.
− Tiêm phòng cúm vào đầu mùa thu và tiêm vắc-xin tăng cường hàng năm cho các đối tượng bị COPD.
– Tiêm vắc-xin phế cầu khuẩn 5 năm một lần và được khuyến cáo ở những bệnh nhân copd ổn định.
. Phục hồi chức năng hô hấp
Các phương pháp điều trị khác
– Vệ sinh mũi, họng thường xuyên.
– Giữ ấm cổ và ngực vào mùa lạnh.
– Phát hiện sớm và điều trị kịp thời các bệnh nhiễm trùng tai mũi họng, răng hàm mặt.
– Phát hiện và điều trị các bệnh đồng bệnh.
THUỐC ĐIỀU TRỊ VIÊM PHỔI ĐỐT MÃN TÍNH
– Thuốc giãn phế quản được coi là nền tảng của điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Thích thuốc giãn phế quản tác dụng lâu dài, hít vào hoặc hít vào.
– Liều lượng và lộ trình sử dụng các loại thuốc này phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng và giai đoạn của bệnh (tham khảo Phụ lục thuốc điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Thuốc chủ vận beta 2 adrenergic tác dụng ngắn SABA Salbutamol, Terbutaline
Beta 2 adrenergic tác dụng lâu dài LABA Indacaterol, Bambuterol
Thuốc kháng cholinergic tác dụng ngắn SAMA Ipratropium
Thuốc kháng cholinergic lâu năm LAMA Tiotropium
Diễn xuất ngắn beta 2 adrenergic +
Thuốc kháng cholinergic tác dụng ngắn SABA + SAMA Ipratropium/salbutamol Ipratropium/fenoterol
Beta 2 adrenergic tác dụng lâu dài + kháng cholinergic LABA/LAMA Indacaterol/Glycopyronium Olodaterol/Tiotropium Vilanterol/Umeclidinium
Corticosteroid hít + thuốc chẹn beta 2 adrenergic tác dụng lâu dài ICS + LABA Budesonide/Formoterol Fluticasone/Vilanterol Fluticason/Salmeterol
Kháng sinh, kháng macrolide PDE4 chống viêm Erythromycin Rofumilast
Nhóm diễn xuất ngắn/dài xanthine Xanthine Theophyllin/Theostat.
Bệnh nhân nhóm A
Thuốc giãn phế quản được sử dụng khi cần thiết, để giúp cải thiện các triệu chứng khó thở.
– Có thể chọn thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn hoặc tác dụng dài.
– Tùy thuộc vào đáp ứng điều trị và cải thiện các triệu chứng của bệnh nhân, phác đồ điều trị sẽ tiếp tục hoặc thay đổi sang nhóm giãn phế quản khác.
Bệnh nhân thuộc nhóm B
Lựa chọn điều trị tối ưu là giãn phế quản tác dụng lâu dài. Đối với bệnh nhân nhóm B, có thể chọn bắt đầu điều trị bằng LABA hoặc LAMA. Không có bằng chứng nào cho thấy rằng thuốc giãn phế quản tác dụng lâu dài cung cấp giảm triệu chứng tốt hơn những người khác. Việc lựa chọn thuốc phụ thuộc vào khả năng chịu đựng và cải thiện các triệu chứng của bệnh nhân.
– Đối với những bệnh nhân vẫn còn khó thở dai dẳng trên LABA hoặc đơn trị liệu LAMA, nên kết hợp hai loại thuốc giãn phế quản LABA/LAMA.
– Đối với bệnh nhân khó thở nặng, có thể xem xét bắt đầu điều trị ngay lập tức với phác đồ kết hợp hai thuốc giãn phế quản LABA/LAMA.
Nếu sự kết hợp của hai loại thuốc giãn phế quản LABA/LAMA không cải thiện các triệu chứng, một bước xuống điều trị với một thuốc giãn phế quản tác dụng lâu dài có thể được xem xét.
– Bệnh nhân nhóm B thường có bệnh đi kèm, có nhiều triệu chứng, khó dự đoán và cần được đánh giá và điều trị toàn diện.
Bệnh nhân thuộc nhóm C
– Bắt đầu điều trị bằng thuốc giãn phế quản tác dụng lâu dài.
– Kết quả của hai nghiên cứu so sánh trực tiếp cho thấy LAMA hiệu quả hơn LABA trong việc ngăn ngừa đợt cấp, do đó nên bắt đầu điều trị bằng LAMA.
– Những bệnh nhân tiếp tục bị đợt cấp có thể nhận được LAMA/LABA hoặc LABA/ICS, nhưng vì ICS làm tăng nguy cơ phát triển viêm phổi ở một số bệnh nhân, LABA/LAMA là lựa chọn ưa thích.
– LABA/ICS có thể được chọn khi bệnh nhân có tiền sử và/hoặc đề xuất chẩn đoán chồng chéo về hen suyễn và COPD hoặc bạch cầu ái toan máu.
Nhóm bệnh nhân D
– Bắt đầu điều trị bằng phác đồ LABA/LAMA:
+ Kết quả nghiên cứu trên bệnh nhân cho thấy phác đồ LABA/LAMA kết hợp có hiệu quả hơn đơn trị liệu.
+ Nếu một phác đồ giãn phế quản duy nhất được sử dụng, LAMA vượt trội so với LABA trong việc ngăn ngừa đợt cấp.
+ LABA /LAMA vượt trội so với LABA/ICS trong việc ngăn ngừa đợt cấp và cải thiện các triệu chứng cho bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính nhóm D.
– Bệnh nhân nhóm D có nguy cơ viêm phổi cao khi điều trị bằng ICS.
– Một số bệnh nhân có thể được bắt đầu trên LABA/ICS nếu bệnh nhân có tiền sử và/hoặc đề nghị chẩn đoán chồng chéo về hen suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tínhhoặc bạch cầu ái toan máu.
− Nếu bệnh nhân vẫn còn trầm trọng mặc dù được điều trị bằng phác đồ LABA/LAMA, một trong hai phác đồ thay thế có thể được áp dụng:
+ Nâng cấp lên phác đồ LABA /LAMA/ICS dựa trên nghiên cứu được tiến hành so sánh hiệu quả của LABA/LAMA so với LABA/LAMA/ICS trong phòng ngừa đợt cấp.
+ Chuyển sang chế độ LABA/ICS. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy việc chuyển từ chế độ LABA/LAMA sang LABA/ICS dẫn đến phòng ngừa đợt cấp tốt hơn. Nếu điều trị LABA/ICS không cải thiện sự trầm trọng/triệu chứng, nhóm LAMA có thể được thêm vào.
− Nếu một bệnh nhân được điều trị bằng LABA/LAMA/ICS vẫn đang trải qua đợt cấp, các lựa chọn sau đây có thể được xem xét:
+ Thêm nhóm roflumilast. Phác đồ này có thể được xem xét ở những bệnh nhân có FEV1 < dự đoán 50% và bị viêm phế quản mãn tính, đặc biệt nếu họ đã có tiền sử ít nhất 1 lần nhập viện vì đợt cấp trong năm trước.
+ Thêm nhóm macrolide: cần xem xét yếu tố vi khuẩn kháng thuốc trước khi quyết định điều trị.
Ngừng ICS: Một nghiên cứu cho thấy ICS kém hiệu quả hơn, làm tăng nguy cơ các tác dụng phụ (bao gồm viêm phổi) và ngừng ICS không ảnh hưởng đáng kể đến bệnh nhân.