Thông thường, người ta thấy rằng ung thư ruột thừa đã không lan đến các cơ quan bên ngoài khoang bụng ngoại trừ trong trường hợp ung thư biểu mô tế bào vòng. Vì vậy, tiên lượng thường khá tốt, đặc biệt là các trường hợp được phát hiện sớm.
Nói chung, tỷ lệ sống sót của bệnh nhân ung thư ruột thừa khác nhau tùy thuộc vào loại khối u, kích thước của nó và mức độ lan rộng của nó.
Theo thống kê, tỷ lệ sống sót ước tính 5 năm đối với các khối u thần kinh nội tiết của ruột thừa là khoảng:
Tỷ lệ này gần như 100% nếu khối u < 3cm và chưa lan rộng.
Khoảng 78% nếu khối u < 3 cm và đã lan đến các hạch bạch huyết khu vực.
Khoảng 78% nếu khối u lớn hơn 3cm, nhưng không lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Khoảng 32% nếu ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Nếu được phát hiện sớm, cơ hội chữa khỏi rất cao, nhưng nhiều trường hợp viêm ruột thừa thường được chẩn đoán sau khi phẫu thuật viêm ruột thừa và sinh thiết hoặc khi khối u đã lan sang các cơ quan khác gây ra các triệu chứng. Về phía trước.
Rất khó để xác định bằng hình ảnh như siêu âm, MRI hoặc CT scan. Do đó, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán là thực hiện sinh thiết sau khi cắt ruột thừa.
Ung thư ruột thừa là một căn bệnh rất hiếm gặp, nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại. Các biểu hiện của bệnh thường khó phát hiện, vì vậy để loại trừ viêm ruột thừa, sinh thiết nên được thực hiện sau khi cắt ruột thừa trong viêm ruột thừa.
Tầm soát ung thư sớm được coi là một biện pháp hoàn hảo trong việc phát hiện và điều trị ung thư kịp thời. Bệnh viện Quốc tế Vinmec hiện có gói khám và tầm soát ung thư công nghệ cao, bao gồm xét nghiệm di truyền, chẩn đoán hình ảnh và dấu ấn sinh học để phát hiện sớm khối u. Chỉ cần một xét nghiệm gen có thể đánh giá nguy cơ của 16 bệnh ung thư phổ biến ở cả nam và nữ.
Phân loại ung thư ruột thừa
Ung thư ruột thừa là một tình trạng trong đó các tế bào trong mô của cơ quan này phát triển, sinh sôi nảy nở hoặc tạo thành một khối u ác tính bên trong ruột thừa. Đây là một loại ung thư được coi là hiếm gặp, nhưng chúng ta không nên chủ quan với căn bệnh này. Bệnh có thể được chia thành 5 loại như sau:
Ung thư biểu mô tuyến đại tràng: Đây là những trường hợp u tuyến bắt đầu hình thành trong niêm mạc đại tràng. Theo thống kê, tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tuyến đại tràng chiếm 10% các trường hợp ung thư ruột thừa. Bệnh thường xảy ra ở nhóm tuổi từ 60 đến 65 và nam giới có nguy cơ cao hơn phụ nữ..
Ung thư biểu mô tuyến nhầy của ruột thừa: Bệnh này xảy ra khi chất nhầy tích tụ bên trong ruột thừa và đáy ruột thừa bị tắc nghẽn. Dạng bệnh này khá hiếm và những người từ 60 tuổi trở lên có nguy cơ cao hơn các nhóm tuổi khác.
Ung thư biểu mô tế bào cốc: Dạng ung thư này thường là kết quả của sự phát triển quá mức của các tế bào trong biểu mô của đường hô hấp và tiêu hóa.
– Ung thư nội tiết thần kinh: Dạng ung thư này chiếm khoảng 50% các trường hợp bệnh. Những khối u này xuất hiện trong thành ruột và thường phát triển chậm. Các khối u tại vị trí này có thể ảnh hưởng đến ruột non và trực tràng của bệnh nhân.
– Ung thư tế bào signet: Dạng bệnh này rất hiếm gặp nhưng có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác, đặc biệt là dạ dày và đại tràng vì di căn của nó khá cao.
Chuẩn đoán bệnh
Trong nhiều trường hợp, ung thư ruột thừa được chẩn đoán sau khi phẫu thuật viêm ruột thừa hoặc khi khối u đã lan sang các cơ quan khác gây ra các triệu chứng đáng kể.
Rất khó để xác định loại ung thư ruột thừa bằng các xét nghiệm hình ảnh như siêu âm, MRI hoặc CT scan. Tương tự như vậy, xét nghiệm máu không phải là một chỉ số đáng tin cậy để chẩn đoán ung thư ruột thừa.
Thông thường, chẩn đoán xác định một người bị ung thư ruột thừa sau khi sinh thiết khối u.
Biến chứng bệnh
Viêm ruột thừa có thể là dấu hiệu đầu tiên của viêm ruột thừa vì một số khối u ruột thừa có thể chặn ruột thừa, dẫn đến vi khuẩn đường ruột bị mắc kẹt và phát triển quá mức bên trong ruột thừa.
Phương pháp điều trị phổ biến nhất cho viêm ruột thừa là phẫu thuật khẩn cấp để loại bỏ ruột thừa. Sau khi phẫu thuật để loại bỏ ruột thừa, sinh thiết mô có thể xác nhận xem ruột thừa có bị ung thư hay không.
Không phải tất cả các loại viêm ruột thừa đều gây viêm ruột thừa. Ví dụ, phần lớn các khối u thần kinh nội tiết hình thành ở đầu ruột thừa, vì vậy nó không có khả năng gây tắc nghẽn gây viêm ruột thừa.
Điều quan trọng cần lưu ý là nhiều người bị viêm ruột thừa không bị viêm ruột thừa. Các yếu tố khác, chẳng hạn như chấn thương bụng và bệnh viêm ruột, có thể gây viêm ruột thừa. Nhiều trường hợp viêm ruột thừa không rõ nguyên nhân.