Việc điều trị ung thư phổi ngày nay đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, trong đó xạ trị nổi lên như một vũ khí hữu hiệu giúp kiểm soát bệnh khi còn khu trú trên địa bàn.
1. Tổng quan về ung thư phổi
Hơn một phần tư của tất cả các bệnh ung thư được chẩn đoán có liên quan đến phổi. Ung thư phổi nguyên phát vẫn là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở nam giới và phụ nữ trên toàn thế giới. Năm 2018, ung thư phổi ước tính cướp đi sinh mạng của hơn 150.000 người.
Tuy nhiên, ung thư phổi có thể phòng ngừa được. Hít phải các chất gây ung thư như khói thuốc lá và bụi môi trường có thể dẫn đến những thay đổi trong mô phổi ngay sau khi tiếp xúc – được gọi là những thay đổi tiền ung thư. Ung thư thường phát triển trong một khoảng thời gian nhiều năm và nếu được phát hiện ở giai đoạn đủ sớm thường có thể được điều trị thành công bằng nhiều phương pháp điều trị khác nhau.
Việc điều trị ung thư phổi ngày nay đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, trong đó xạ trị nổi lên như một vũ khí hữu hiệu giúp kiểm soát bệnh khi còn khu trú tại khu vực.
Khi bệnh tiến triển và di căn, các liệu pháp nhắm mục tiêu và liệu pháp miễn dịch đang đạt được những thành công đáng kể và đang dần thay thế hóa trị liệu truyền thống.
Vậy nếu tôi không may bị ung thư phổi, hoặc có người thân bị ung thư phổi, tôi nên chọn phương pháp điều trị nào?
2. Đánh giá trước điều trị
Trước khi điều trị, sinh thiết thường được thực hiện để xác định xem bệnh nhân có bị ung thư hay không và nếu có thì thuộc loại nào.
Các xét nghiệm được khuyến nghị để xác định giai đoạn của khối u. Những xét nghiệm này thường bao gồm xét nghiệm máu và hình ảnh. Hình ảnh thường bao gồm chụp cắt lớp vi tính (CT) ngực và có thể bao gồm chụp PET-CT. Các lựa chọn điều trị và kết quả mong đợi phụ thuộc vào giai đoạn của khối u.
Ngoài ra, xét nghiệm đột biến gen còn giúp xác định bản chất sinh học của khối u và giúp lựa chọn liệu pháp điều trị thích hợp nhất.
Có rất nhiều câu hỏi sẽ được hỏi cần câu trả lời tốt nhất bao gồm:
Điều trị có phụ thuộc vào loại ung thư phổi không? Giai đoạn có giúp định hướng điều trị ung thư phổi không? Có thể điều trị ung thư phổi mà không cần phẫu thuật?
3. Tổng quan về các lựa chọn điều trị
Khoảng 1/3 bệnh nhân ung thư phổi được chẩn đoán bệnh khu trú có thể điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ. Nếu bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn phẫu thuật cắt bỏ (do tuổi già, bệnh lý kèm theo hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật) thì hoàn toàn có thể điều trị bằng phương pháp xạ trị triệt căn.
Một phần ba số bệnh nhân mắc bệnh đã lan đến các hạch bạch huyết. Trong những trường hợp này, xạ trị kết hợp với hóa trị và đôi khi phẫu thuật được sử dụng.
Một phần ba số bệnh nhân cuối cùng có thể có khối u đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể thông qua dòng máu và thường được điều trị bằng hóa trị, liệu pháp nhắm mục tiêu hoặc liệu pháp miễn dịch và đôi khi bằng xạ trị để giảm triệu chứng.Cắt bỏ toàn bộ thùy phổi, bao gồm cả khối u, là phương pháp điều trị chính cho bệnh nhân ung thư giai đoạn đầu có sức khỏe tổng quát tốt. Mục tiêu của phẫu thuật là loại bỏ hoàn toàn tất cả các tế bào khối u. Thật không may, ung thư phổi có xu hướng phát triển ở những người hút thuốc trên 50 tuổi, những người thường mắc bệnh phổi khác hoặc các tình trạng bệnh lý nghiêm trọng làm tăng nguy cơ phải phẫu thuật. Vị trí và kích thước của khối u phổi quyết định mức độ phẫu thuật. Phẫu thuật mở ngực hoặc phẫu thuật mở ngực ít xâm lấn, sử dụng các vết rạch nhỏ hơn, có thể được khuyến nghị cho những bệnh nhân được lựa chọn phù hợp.Cắt thùy – cắt bỏ toàn bộ thùy phổi – là một thủ thuật được chấp nhận để loại bỏ ung thư phổi khi phổi hoạt động tốt. Nguy cơ tử vong là 3% đến 4% và có xu hướng cao nhất ở những bệnh nhân lớn tuổi. Nếu chức năng phổi kém cản trở việc cắt bỏ thùy phổi, một khối ung thư nhỏ giới hạn ở một khu vực giới hạn có thể được cắt bỏ bằng một phần nhỏ mô phổi xung quanh. Điều này được gọi là cắt bỏ một phần và có thể là cắt bỏ hình nêm hoặc cắt thùy. Với phẫu thuật hạn chế hơn so với phẫu thuật cắt thùy, khả năng tái phát cao hơn. Phẫu thuật cắt bỏ thùy ít làm giảm chức năng phổi vì một phần phổi nhỏ hơn được loại bỏ và có nguy cơ tử vong do phẫu thuật là 1,4%. Nếu phải cắt bỏ toàn bộ phổi bằng phẫu thuật cắt phổi, tỷ lệ tử vong dự kiến là từ 5 đến 8%. Những bệnh nhân lớn tuổi nhất có nguy cơ cao nhất và tái phát ung thư là rất phổ biến. Trong phần lớn các trường hợp, bệnh nhân không thích hợp để phẫu thuật hoặc không thể loại bỏ toàn bộ khối u vì kích thước hoặc vị trí của nó.
4. Xạ trị
Xạ trị sử dụng bức xạ năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư đang phân chia nhanh chóng. Có nhiều công dụng của xạ trị trong ung thư phổi:
Giống như điều trị ban đầu và triệt để Trước khi phẫu thuật để thu nhỏ khối u Sau khi phẫu thuật để loại bỏ bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại trong khu vực được điều trị Để điều trị ung thư phổi đã di căn đến não hoặc các khu vực khác của cơ thể.
Bên cạnh việc tấn công khối u, xạ trị có thể giúp làm giảm một số triệu chứng mà nó gây ra, chẳng hạn như khó thở. Khi được sử dụng như một phương pháp điều trị ban đầu thay vì phẫu thuật, xạ trị có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với hóa trị.
Ngày nay, nhiều bệnh nhân bị ung thư phổi nhỏ, nhưng không phải là ứng cử viên cho phẫu thuật, đang được điều trị bằng một kỹ thuật bức xạ gọi là xạ trị định vị cơ thể (SBRT). Những bệnh nhân không thể phẫu thuật bao gồm người già, bệnh nhân suy tim mãn tính và bệnh nhân dùng thuốc làm loãng máu khiến họ có nguy cơ chảy máu do phẫu thuật. SBRT liên quan đến việc điều trị bằng nhiều chùm bức xạ nhỏ, tập trung vào khối u phổi cùng với chuyển động hô hấp của nó, giúp tiêu diệt khối u trong ba đến năm lần điều trị.
Phương pháp điều trị này cung cấp liều phóng xạ rất cao cho bệnh ung thư phổi ở những bệnh nhân không thể phẫu thuật. SBRT chủ yếu dùng trong giai đoạn đầu, bệnh còn khu trú.
Trong những trường hợp nặng hơn tại địa phương, xạ trị được thực hiện bằng kỹ thuật chùm tia bên ngoài, hướng chùm tia tới khối u. Việc điều trị được chia thành một loạt các ngày liên tiếp, thường là 5 ngày một tuần, thường được gọi là liều phân đoạn, kéo dài hơn sáu đến bảy tuần đối với các phương pháp điều trị thông thường. Xạ trị phù hợp ba chiều (3D) hoặc xạ trị kỹ thuật cao như xạ trị điều biến cường độ (IMRT), xạ trị điều biến thể tích (VMAT) là những kỹ thuật tương đối mới dựa trên hình ảnh 3-D của các khối u được chụp bằng CT scan hoặc PET-CT. Hình ảnh này đóng vai trò là mục tiêu cho một chùm bức xạ liều cao có thể thay đổi hình dạng và kích thước để phù hợp với khối u. Liệu pháp xạ trị IMRT hoặc VMAT này giúp giảm phơi nhiễm phóng xạ của mô phổi bình thường gần đó.
5. Hóa trị
Hóa trị liên quan đến các loại thuốc gây độc cho tế bào ung thư. Thuốc thường được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc qua ống thông đặt trong tĩnh mạch lớn. Thường được sử dụng như liệu pháp bổ trợ sau phẫu thuật để loại bỏ các tế bào di căn còn sót lại, hóa trị cũng có thể làm chậm sự phát triển của khối u và giảm triệu chứng ở những bệnh nhân không thể phẫu thuật.
Một số loại thuốc hóa trị làm tăng tổn thương khối u bằng cách kết hợp với xạ trị tế bào ung thư. Những loại thuốc hóa trị này giúp giữ cho các tế bào khối u ở giai đoạn chúng nhạy cảm nhất với bức xạ hoặc làm giảm khả năng tự sửa chữa của các tế bào ung thư sau một đợt xạ trị. Bằng chứng cho thấy rằng sự kết hợp của các loại thuốc này kết hợp với xạ trị hiệu quả hơn so với xạ trị đơn thuần, nhưng có nguy cơ tác dụng phụ đáng kể.
Hóa trị có thể gây ra các tác dụng phụ đáng kể, chẳng hạn như buồn nôn và nôn vì nó phá hủy các tế bào bạch cầu cần thiết để chống nhiễm trùng, nhưng có nhiều cách để chống lại nó và hầu hết có thể được điều trị tốt. tất cả những hiệu ứng này.
6. Các tác nhân sinh học mới hơn, chẳng hạn như liệu pháp nhắm mục tiêu hoặc liệu pháp miễn dịch
Những loại thuốc mới này có thể có ít tác dụng phụ hơn so với hóa trị liệu truyền thống và trong một số trường hợp có thể hiệu quả hơn. Phương pháp điều trị này được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của bệnh ung thư phổi, đặc biệt là giai đoạn di căn và có thể kéo dài sự sống ngay cả ở người cao tuổi miễn là họ có sức khỏe tốt. Hiện các liệu pháp này đang từng bước được nghiên cứu và ứng dụng vào thực tế nên cần có thêm thời gian và dữ liệu để đánh giá toàn diện về hiệu quả duy trì đáp ứng ổn định. và tuổi thọ của thuốc.
7. Điều trị ung thư phổi không thể phẫu thuật có hiệu quả không?
Điều cực kỳ quan trọng cần nhớ là “không thể phẫu thuật” không có nghĩa là “không thể chữa khỏi” khi nói đến ung thư phổi. Trên thực tế, ngày càng có nhiều bệnh nhân được điều trị bằng các phương pháp không phẫu thuật ở tất cả các giai đoạn của bệnh này. Hiệu quả điều trị phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Ở giai đoạn đầu của bệnh, không thể phẫu thuật và điều trị bằng xạ trị đơn thuần, hiệu quả kiểm soát bệnh tương đương với phẫu thuật. Trong bệnh tiến triển hơn, sự kết hợp của hóa trị và xạ trị được đưa ra với mục đích chữa bệnh. Tỷ lệ chữa khỏi thấp hơn, nhưng nó vẫn có thể xảy ra ngay cả khi bệnh đã lan đến các hạch bạch huyết ở ngực.
Khi điều trị khỏi bệnh không phải là mục tiêu chính trong di căn xa, điều trị giảm nhẹ thường được khuyến nghị. Đây là việc sử dụng thuốc, hóa trị, xạ trị hoặc các biện pháp khác để làm giảm các triệu chứng ung thư phổi mà không thực sự cắt bỏ khối u. Liều xạ trị nhỏ hơn được sử dụng để tránh tác dụng phụ.
Tại một số thời điểm, nếu bạn và bác sĩ chuyên khoa ung thư hoặc bác sĩ chăm sóc chính của bạn đồng ý rằng việc điều trị tích cực không còn được khuyến nghị nữa, thì chăm sóc giảm nhẹ có thể mang lại sự thoải mái và hỗ trợ. Giảm đau là một phần rất quan trọng trong điều trị ung thư phổi. Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị hiệu quả và các thiết bị cung cấp thuốc theo yêu cầu mà không dùng quá liều, nhiều bệnh nhân ung thư vẫn không được giảm đau đầy đủ. Nếu nhu cầu của bệnh nhân được thể hiện rõ ràng, bác sĩ điều trị có thể cung cấp dịch vụ chăm sóc phù hợp hơn.
8. Điều gì xảy ra trong quá trình xạ trị?
Xạ trị là sử dụng tia X năng lượng cao (photon), tia gamma hoặc các hạt nguyên tử. Nó ảnh hưởng đến các tế bào phân chia nhanh, chẳng hạn như tế bào ung thư, nhiều hơn các tế bào bình thường. Hầu hết các bệnh ung thư, kể cả khối u phổi, được tạo thành từ các tế bào phân chia nhanh hơn các tế bào trong mô phổi bình thường, vì vậy khối u có thể được loại bỏ mà không gây tổn hại. các mô bình thường.
Xạ trị hoạt động bằng cách tấn công vật liệu di truyền DNA trong các tế bào khối u, khiến chúng không thể phát triển và tạo ra nhiều tế bào ung thư hơn. Các tế bào cơ thể bình thường cũng có thể bị tổn thương, mặc dù ít rõ ràng hơn nhưng chúng có thể tự sửa chữa và hoạt động bình thường trở lại. Chiến lược chính là cung cấp một liều bức xạ hàng ngày đủ lớn để tiêu diệt một tỷ lệ cao các tế bào ung thư đang phân chia nhanh chóng, đồng thời giảm thiểu thiệt hại cho các tế bào mô bình thường phân chia chậm hơn trong cùng một tĩnh mạch. một khu vực.
9. Xạ trị có tác dụng phụ gì?
Chán ăn tạm thời có thể xảy ra sau xạ trị
Hầu hết bệnh nhân đều mệt mỏi sau lần xạ trị đầu tiên. Sự mệt mỏi này tăng dần khi tiếp tục điều trị, làm hạn chế khả năng tham gia các hoạt động bình thường hàng ngày. Thông thường, sự mệt mỏi sẽ giảm đi từ một đến hai tháng sau khi xạ trị xong. Nếu bạn cảm thấy mệt mỏi, điều quan trọng là phải nghỉ ngơi đầy đủ.
Kích ứng da là phổ biến sau một vài tuần xạ trị. Khu vực bị ảnh hưởng có thể đỏ, khô, đau và ngứa. Phản ứng này có thể trở nên khá trầm trọng khi điều trị lâu dài. Nên giữ cho da sạch sẽ bằng xà phòng dịu nhẹ và nước ấm, để da thật khô và tránh tắm nước quá nóng. Nên sử dụng kem chống nắng khi vùng da điều trị tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Nước hoa, mỹ phẩm và chất khử mùi không nên được sử dụng trong khu vực điều trị. Sau khi điều trị hàng ngày, bạn có thể thoa kem hoặc kem dưỡng da không mùi.
Chán ăn tạm thời là một khả năng.
Viêm thực quản, tình trạng viêm ống dẫn thức ăn từ miệng đến dạ dày, thường gặp sau xạ trị ung thư phổi và có thể nghiêm trọng. Thực quản rất nhạy cảm với bức xạ và tổn thương xảy ra nhiều hơn ở những bệnh nhân cũng được hóa trị. Viêm thực quản gây khó nuốt và một số bệnh nhân bị sụt 10% trọng lượng cơ thể trở lên. Tuy nhiên, tình trạng viêm ổn định trong vòng ba tuần sau khi hoàn thành điều trị ở hầu hết bệnh nhân và ngay sau khi họ bắt đầu lấy lại cân nặng đã mất.Viêm phổi được gọi là viêm phổi do phóng xạ có thể phát triển từ ba đến sáu tháng sau khi xạ trị kết thúc. Nó gây ra ho và khó thở cũng như sốt nhưng trong hầu hết các trường hợp, không cần điều trị cụ thể và sẽ đỡ hơn trong vòng hai đến bốn tuần.