Ung thư biểu mô tuyến tụy (PDAC) mang tỷ lệ mắc bệnh và tử vong đáng kể và vẫn là một trong những khối u ác tính khó điều trị nhất. Các yếu tố của từng bệnh nhân và khối u cần được tính đến để đưa ra phương pháp tối ưu, phù hợp với từng cá nhân. Bài viết dưới đây đánh giá đáp ứng của ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị tân sinh
1. Đánh giá đáp ứng ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị tân bổ trợ
Siêu âm thông thường
Siêu âm ổ bụng (Mỹ) là một phương pháp điều tra kinh tế và không dùng bức xạ. Nó giúp hình dung khối tụy giảm dần trên hình ảnh CT không cản quang. Tuy nhiên, vai trò của nó trong việc đánh giá đáp ứng của khối u là rất hạn chế. Tuy nhiên, siêu âm có thể là một công cụ hữu ích để phát hiện các biến chứng trong ổ bụng và độc tính của thuốc trong quá trình điều trị tân sinh trong ung thư tuyến tụy di căn. Các biến cố bất lợi phổ biến nhất của liệu pháp bổ trợ tân sinh đối với ung thư tuyến tụy di căn là viêm đại tràng giảm bạch cầu trung tính và huyết khối tĩnh mạch, có thể dễ dàng phát hiện bằng siêu âm bụng.
Siêu âm nội soi
Siêu âm nội soi (EUS) đã phát triển từ một phương thức hình ảnh đơn thuần thành một phương thức cho phép chẩn đoán mô thông qua chọc hút kim nhỏ. Nó đã được chứng minh là một phương tiện có giá trị trong việc phát hiện sớm và phân loại giai đoạn ung thư biểu mô tuyến tụy, đặc biệt đối với các tổn thương ≤3 cm, vượt trội so với CT đa đầu dò. Gần đây, vai trò của EUS trong việc cung cấp điều trị tân sinh trong ung thư biểu mô ống tụy và đánh giá đáp ứng của nó đang nổi lên nhanh chóng. Das và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu mẫu lớn để điều tra giá trị của EUS trong việc dự đoán đáp ứng khối u trước phẫu thuật của ung thư biểu mô ống tụy sau liệu pháp tân bổ trợ. Kết quả cho thấy sự thay đổi kích thước khối u sau khi điều trị bổ trợ tân sinh trên EUS là một dấu hiệu nhạy cảm để đánh giá đáp ứng của khối u và việc giảm kích thước khối u 47% là một yếu tố. tiên lượng độc lập cho sự sống còn ở những bệnh nhân này.
Một đánh giá có hệ thống từ Barreto và cộng sự đã so sánh độ chính xác của các phương thức hình ảnh để dự đoán khả năng cắt bỏ và cắt bỏ R0 đối với đường viền quanh khối u hoặc ung thư biểu mô ống tụy tiến triển tại chỗ sau khi điều trị bổ trợ tân sinh. Họ chỉ ra rằng đánh giá hình ảnh hiệu quả cho phép dự đoán cắt bỏ khối u. Hơn nữa, sự giảm độ cứng khối u của ung thư biểu mô ống tụy trên EUS đàn hồi mô có thể được sử dụng như một dấu hiệu tiềm năng cho phản ứng bổ trợ tân sinh và đánh giá khả năng cắt bỏ. u. Ngoài ra, Figueedlyo et al. đã báo cáo vai trò của công nghệ do EUS hướng dẫn trong việc thực hiện liệu pháp bổ trợ tân sinh cho ung thư biểu mô tuyến tụy. Các tác giả chỉ ra rằng việc đặt các chất đánh dấu chính xác theo hướng dẫn của EUS đối với xạ trị toàn thân hệ thống lập thể trong ung thư biểu mô tuyến tụy đã giúp đảm bảo tính khả thi và an toàn của liệu pháp bổ trợ. người mới sinh tiếp theo. Các nghiên cứu trên minh họa tầm quan trọng của EUS trong điều trị tân sinh bổ trợ cho ung thư biểu mô tuyến tụy.
Siêu âm nội soi là một trong những cách đánh giá đáp ứng của ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị
CT đa đầu dò
CT đa đầu dò (MDCT) là phương thức hình ảnh được sử dụng thường xuyên nhất để đánh giá đáp ứng của ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị tân sinh bổ trợ. So với các kỹ thuật hình ảnh khác, ưu điểm của nó bao gồm độ phân giải không gian cao hơn và khả năng tái tạo nhiều mặt. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng hiệu quả chẩn đoán của MDCT trong việc đánh giá việc cắt bỏ khối u và phân bố lại các khối u ở ranh giới là không thỏa đáng. Trong một nghiên cứu trên 129 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy ở ranh giới phẫu thuật, các tác giả nhận thấy tiêu chí đánh giá đáp ứng thường được sử dụng trong tiêu chí khối u đặc (RECIST). ) không phù hợp để đánh giá đáp ứng của khối u sau khi điều trị bổ trợ tân sinh, vì có ít thay đổi về hình thái trên hình ảnh sau điều trị. Một tổng quan hệ thống đã báo cáo rằng chỉ một số ít bệnh nhân có biểu hiện tái phát khối u sau khi tân sinh bổ trợ và hầu hết bệnh nhân (53% -80%) có bệnh ổn định. Các kết quả tương tự cũng được báo cáo bởi một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng việc đánh giá khả năng cắt bỏ MDCT sau tân sinh bổ trợ tương đối không nhạy cảm và không đặc hiệu để dự đoán cắt bỏ R0. , bởi vì MDCT không thể phân biệt chính xác giữa khối u còn sót lại và mô sẹo sau khi khối u thoái triển.
Hơn nữa, viêm tụy cấp khu trú cũng không thể phân biệt được với thâm nhiễm khối u và thâm nhiễm khối u được thay thế bằng mô xơ, không dẫn đến thay đổi rõ rệt về kích thước. khối u. Tất cả những yếu tố này dẫn đến việc đánh giá thấp khả năng cắt bỏ khối u. Gần đây, một số nghiên cứu đã bắt đầu khám phá liệu các đặc điểm hình ảnh có khác với kích thước khối u và tăng cường hình ảnh hay không. Hình ảnh MDCT có thể được sử dụng để đánh giá phản ứng của khối u trong ung thư biểu mô ống tụy. Một nghiên cứu của Cassinotto và cộng sự đã chỉ ra rằng sự hồi quy một phần của sự tiếp xúc với khối u đối với mạch máu sau khi điều trị bằng chất bổ trợ tân sinh cho thấy sự phù hợp để thăm dò bằng phẫu thuật, bất kể kích thước khối u có giảm đi hay không. khối u hoặc sự tham gia của mạch máu còn sót lại. Một nghiên cứu khác của Amer và cộng sự cho rằng những thay đổi trong giao diện ung thư biểu mô ống/nhu mô tụy có thể được sử dụng như một yếu tố dự báo sớm đáp ứng với điều trị tân sinh. Một nghiên cứu gần đây từ Wei et al. cho thấy đường kính khối u lớn nhất và thể tích khối u cản quang trên MDCT sau điều trị có liên quan đến giai đoạn khối u bệnh lý và đáp ứng của khối u với liệu pháp bổ trợ. hỗ trợ sơ sinh. Mặc dù MDCT có độ phân giải cao trong việc hiển thị các đặc điểm hình thái của khối u và các cấu trúc mạch máu xung quanh, nhưng nó có độ đặc hiệu thấp do không làm giảm khối u rõ rệt sau khi điều trị tân dược. trong ung thư biểu mô tuyến tụy, cũng như sự hiện diện của mô xơ và viêm tụy khu trú. Do đó, MDCT có độ đặc hiệu và độ nhạy thấp trong điều trị phục hồi ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị tân dược. Tuy nhiên, việc tiếp tục định lượng và đánh giá các chỉ số hình ảnh trên phim MDCT có thể cải thiện đáng kể việc đánh giá đáp ứng của khối u và giá trị tiên lượng của bệnh nhân ung thư biểu mô ống tụy sau điều trị. bổ sung sơ sinh.
Đánh giá đáp ứng với chụp cắt lớp vi tính tăng cường tương phản sau khi điều trị bổ trợ ung thư.
Chụp cộng hưởng từ
Chụp cộng hưởng từ (MRI) cung cấp hình ảnh rõ hơn về các mô mềm và các bất thường của tuyến tụy và ống dẫn mật. Trong ung thư biểu mô tuyến tụy, khả năng tế bào và xơ hóa cao của khối u cản trở sự di chuyển tự do của các phân tử nước. Điều này có thể được định lượng bằng hình ảnh có trọng số khuếch tán (DWI) trên MRI, dẫn đến hệ số khuếch tán biểu kiến (ADC) trung bình thấp trên bản đồ hệ số khuếch tán biểu kiến trung bình.
Chụp cắt lớp phát xạ positron
Chụp cắt lớp phát xạ positron 18F-fluorodeoxyglucose (18-F-FDG-PET) là một xét nghiệm chẩn đoán phản ánh tình trạng di truyền, phân tử, chuyển hóa và chức năng của tổn thương. Giá trị hấp thu tiêu chuẩn hóa tối đa (SUVmax) thu được bằng hình ảnh PET phản ánh quá trình chuyển hóa glucose của các khối u. Choi và cộng sự đã khám phá mối quan hệ giữa đáp ứng điều trị sớm sau hóa trị liệu bổ trợ tân sinh bằng FDG-PET và kết quả phẫu thuật trong ung thư biểu mô ống tụy tiến triển tại chỗ.
CT tưới máu
Ung thư biểu mô ống tụy là một khối u giàu ma trận được đặc trưng bởi sự kích hoạt các tế bào hình sao tuyến tụy, nơi lắng đọng một lượng lớn ma trận ngoại bào. Sự tích tụ của chất nền ngoại bào, bao gồm collagen, fibronectin, proteoglycan và axit hyaluronic, có thể gây ra sự hình thành chất nền ngoại bào cứng để nén các mạch máu, dẫn đến tổn thương tưới máu và cuối cùng cản trở việc vận chuyển thuốc chống ung thư đến các tế bào khối u.
CT tưới máu cũng là một trong những phương pháp đánh giá thường được sử dụng
2. Phân tích cấu trúc và mô hình hóa dữ liệu
Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã nhấn mạnh vai trò của kỹ thuật trực quan hóa dữ liệu trong các khía cạnh khác nhau của khối u tụy, chẳng hạn như đặc điểm khối u, đánh giá khả năng phẫu thuật, v.v., nguy cơ tái phát và khả năng sống sót. Một nghiên cứu trước đây của Chen và cộng sự cho thấy những thay đổi trong các đặc điểm chụp X quang CT, chẳng hạn như thay đổi hình ảnh trong quá trình hóa trị, ở bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy. Các tác giả gợi ý rằng những thay đổi này có thể được sử dụng để đánh giá sớm đáp ứng điều trị và phân tầng bệnh nhân để đạt được điều trị chính xác và chuyên sâu. Chakraborty và cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu sơ bộ để tìm hiểu giá trị của phân tích kết cấu CT trong việc định lượng tính không đồng nhất của khối u và dự đoán khả năng sống sót sau 2 năm ở bệnh nhân ung thư biểu mô. tuyến tụy. Kết quả cho thấy các đặc điểm kết cấu CT có thể dự đoán tính không đồng nhất trong các khối u tuyến tụy. Đồng thời, độ chính xác của phân tích kết cấu CT trong dự đoán tỷ lệ sống thêm 2 năm có thể đạt tới 82,86%. Do đó, nó có thể được sử dụng để phát triển các kế hoạch điều trị tối ưu cho bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến tụy.Gần đây, một số nghiên cứu đã khám phá tiện ích của phân tích kết cấu CT trong việc dự đoán khả năng phẫu thuật và tiên lượng ở bệnh nhân ung thư biểu mô ống tụy và mối quan hệ giữa các đặc điểm kết cấu và phản ứng bệnh lý của khối u. Kết quả cho thấy đặc điểm kết cấu CT chính xác hơn trong việc xác định các khối u có thể cắt bỏ được hơn là không thể cắt bỏ. Các tác giả kết luận rằng các đặc điểm cấu trúc tiền xử lý của hình ảnh CT ban đầu và những thay đổi theo chiều dọc về tính không đồng nhất của khối u có thể được sử dụng làm dấu ấn sinh học để dự đoán nghiên cứu phản ứng của mô với hóa trị liệu bổ trợ và khả năng sống sót không bệnh tật. Ngoài ra, Nasief et al. đã báo cáo giá trị của trực quan hóa dữ liệu liên quan đến kháng nguyên carbohydrate 19-9 (CA19-9) trong đánh giá liệu pháp bổ trợ tân sinh cho ung thư biểu mô tuyến. tuyến tụy. Kết quả cho thấy mức độ CA19-9 giảm và các đặc điểm chụp X quang đơn giản là những yếu tố dự báo khả năng sống sót ở những bệnh nhân này. Sự kết hợp của các tính năng phóng xạ delta-CA19-9 có khả năng tăng khả năng thích ứng với điều trị dựa trên đáp ứng. Không thể phủ nhận rằng trực quan hóa dữ liệu hoặc phân tích kết cấu có nhiều hứa hẹn trong việc quản lý ung thư biểu mô ống tụy sau tân sinh bổ trợ. Những hạn chế hiện tại của radiomics bao gồm phân đoạn tốn thời gian và kết luận không chắc chắn. Các nghiên cứu quy mô lớn hơn nữa là cần thiết để xác định tiềm năng thực sự của nó.
Mọi thông tin chi tiết xin liên hệ : https://ungthuphoi.com.vn/