Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến ở phụ nữ. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ đều có nguy cơ mắc ung thư vú trong suốt cuộc đời của họ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số yếu tố rủi ro làm tăng khả năng phát triển ung thư vú ở phụ nữ.
1. Các yếu tố rủi ro
Sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ ung thư vú không có nghĩa là ung thư là chắc chắn. Nhiều phụ nữ mang các yếu tố nguy cơ nhưng không bao giờ phát triển ung thư vú. Thay vào đó, các yếu tố rủi ro giúp xác định những phụ nữ có thể hưởng lợi nhiều nhất từ việc sàng lọc hoặc các biện pháp phòng ngừa khác.
Điều quan trọng cần nhớ là ung thư vú cũng có thể xảy ra ở phụ nữ không có yếu tố rủi ro:
Tuổi tác: Yếu tố nguy cơ chính gây ung thư vú ở hầu hết phụ nữ là tuổi tác. Tỷ lệ mắc ung thư vú tăng mạnh theo tuổi cho đến 45 – 50 tuổi, sau đó mức độ tăng ít dần. Từ 75 đến 80 tuổi biểu đồ cho thấy tỷ lệ mắc bệnh nằm ngang sau đó bắt đầu giảm dần.Giới tính: Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ và thường xảy ra ở phụ nữ gấp 100 lần so với nam giới. Chủng tộc/sắc tộc: Ở Hoa Kỳ, phụ nữ da trắng có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn. ung thư vú cao nhất; Cứ 100.000 phụ nữ thì có 124 trường hợp được chẩn đoán. Tỷ lệ ung thư vú thấp hơn ở phụ nữ da đen (113 trên 100.000), người Mỹ bản địa/thổ dân Alaska (92 trên 100.000) và phụ nữ gốc Tây Ban Nha (90 trên 100.000). Tỷ lệ này thấp nhất trong số người Mỹ gốc Á/Người dân đảo Thái Bình Dương (82 trên 100.000). Cân nặng: Tăng cân và béo phì có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú sau mãn kinh, nhưng điều này không phải vậy. không liên quan đến việc phụ nữ có kinh nguyệt, mặc dù cơ chế của mối liên hệ này là không rõ ràng. Tầm vóc cao: Tầm vóc cao có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư vú. Bệnh vú lành tính: Ngoài ung thư vú, phụ nữ có thể có những tổn thương bất thường khác ở vú. Những bất thường này có thể là sự phát triển quá mức của mô tuyến vú (còn được gọi là tổn thương tăng sinh) hoặc có thể là tăng sinh mô xơ, giãn tuyến vú hoặc hình thành u nang (được gọi là tổn thương không tăng sinh). tăng sinh).Phụ nữ có tiền sử tổn thương vú tăng sinh có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, đặc biệt nếu có tế bào bất thường (tăng sản không điển hình). Mật độ chụp quang tuyến vú: Phụ nữ chụp X-quang tuyến vú cho thấy vùng mô dày đặc hơn có nguy cơ ung thư vú cao hơn so với phụ nữ chụp quang tuyến vú có nhiều mô mỡ hơn. Mật độ xương cao: Phụ nữ có mật độ khoáng xương (BMD) cao có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Xương chứa các thụ thể estrogen và nhạy cảm với estrogen lưu thông. Do đó, BMD có thể phản ánh nồng độ estrogen lưu hành. Tiền sử cá nhân bị ung thư vú: Phụ nữ có tiền sử ung thư ở một bên vú có nguy cơ cao phát triển ung thư ở vú còn lại. Nếu một phụ nữ có tiền sử ung thư biểu mô tại chỗ (DCIS), nguy cơ mắc bệnh là khoảng 5% trong 10 năm tới. Tuy nhiên, nếu là ung thư vú xâm lấn thì nguy cơ mắc bệnh là 1%/năm đối với phụ nữ tiền mãn kinh và 0,5%/năm đối với phụ nữ sau mãn kinh.Tiền sử gia đình: Tiền sử gia đình là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với ung thư vú, đặc biệt là trong gia đình có mẹ, chị gái hoặc con gái bị ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng mặc dù tỷ lệ hiện mắc. Chỉ có khoảng 20% phụ nữ trong nhóm này bị ung thư vú. Bổ sung nội tiết tố sau khi mãn kinh: Sử dụng lâu dài kết hợp estrogen-progestin đường uống ở phụ nữ từ 50 đến 79 tuổi làm tăng nguy cơ ung thư vú. ung thư vú cũng như bệnh tim, đột quỵ và cục máu đông ở chân. Ngược lại, nhiều nghiên cứu đã ghi nhận rằng thuốc tránh thai không liên quan rõ ràng với việc tăng nguy cơ ung thư vú. Tuổi bắt đầu có kinh và tuổi mãn kinh: Cả hai đều trẻ hơn khi bắt đầu có kinh. và tuổi muộn hơn khi bắt đầu mãn kinh đều làm tăng nguy cơ ung thư vú. Mang thai và cho con bú: Một số nghiên cứu cho thấy phụ nữ sinh nhiều con ít có khả năng bị ung thư vú sau này. phụ nữ chưa từng sinh nở. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác cho thấy điều này chỉ đúng với những phụ nữ bắt đầu có con trước 35 tuổi. Việc cho con bú cũng được phát hiện là có liên quan đến việc giảm nguy cơ phát triển ung thư vú; đặc biệt là những người có thời gian cho con bú dài hơn.
Phá thai không liên quan đến nguy cơ ung thư vú. Không hoạt động thể chất: Mặc dù không có bằng chứng trực tiếp nào cho thấy việc không hoạt động có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú, nhưng tập thể dục có tác dụng bảo vệ. Chống lại ung thư vú ở cả phụ nữ tiền mãn kinh và sau mãn kinh Nguy cơ này liên quan đến tuổi hút thuốc sớm hơn, thời gian hút lâu hơn và/hoặc số năm hút thuốc cao hơn. Rượu: Có mối quan hệ đáng kể giữa việc uống rượu và tăng nguy cơ ung thư vú, bắt đầu bằng việc uống rượu tối thiểu ba ly mỗi ngày. tuần. Nguy cơ dường như tăng lên khi tiêu thụ nhiều rượu và chất phụ gia hơn khi sử dụng liệu pháp hormone mãn kinh. Dường như không có sự khác biệt theo loại rượu.
Rượu là một trong những nguyên nhân chính gây ung thư vú ở phụ nữ
Chế độ ăn uống: Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn nhiều trái cây và rau quả giúp giảm nguy cơ ung thư vú. Không có tác dụng đối với nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ ăn nhiều ngũ cốc tinh chế, đồ ngọt và sữa nhiều chất béo. Tiêu thụ thịt đỏ: Ăn hơn 5 khẩu phần thịt đỏ mỗi tuần có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh. Canxi/vitamin D: Chế độ ăn ít canxi và vitamin D có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ tiền mãn kinh phụ nữ nhưng không phải ở phụ nữ mãn kinh. mãn kinh. Tuy nhiên, một nghiên cứu về những phụ nữ bổ sung vitamin D và canxi trong chế độ ăn không cho thấy sự khác biệt về số lượng phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú. Chất chống oxy hóa: Không có bằng chứng về tác dụng của việc bổ sung vitamin A, E hoặc C hoặc beta-carotene đối với nguy cơ ung thư vú. Đậu nành là chất thực vật tự nhiên có cấu trúc hóa học tương tự như estrogen.
2. Yếu tố môi trường
Tiếp xúc với bức xạ ion hóa: Tiếp xúc với bức xạ ion hóa ở vùng ngực khi còn trẻ, như trong điều trị ung thư hạch hoặc ở những người sống sót sau bom nguyên tử hoặc tai nạn hạt nhân, có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vú.
Công việc ca đêm: Công việc ca đêm được Cơ quan Nghiên cứu Ung thư và Tổ chức Y tế Thế giới công nhận là một chất có thể gây ung thư. Phụ nữ làm ca đêm có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn phụ nữ không làm ca đêm. Lý do chính cho điều này vẫn đang được nghiên cứu nhưng có thể được cho là có liên quan đến hormone melatonin, thường được sản xuất vào ban đêm.
Phụ nữ làm ca đêm có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn phụ nữ không làm ca đêm
Các yếu tố khác: Dioxin và thuốc trừ sâu clo hữu cơ như dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT) đã được nghiên cứu. Các hợp chất này là estrogen yếu, ưa mỡ cao và có khả năng tồn tại trong các mô cơ thể trong nhiều năm. Tuy nhiên, mối liên quan với ung thư vú chưa được chứng minh. Ngoài ra, cấy ghép ngực thẩm mỹ, trường điện từ, chăn điện và thuốc nhuộm tóc không liên quan đến nguy cơ ung thư vú.
3. Lời khuyên cho phụ nữ
Thay đổi lối sống – Một số thay đổi lối sống có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú:
Lên kế hoạch cho lần sinh đầu tiên trước tuổi 30. Cho con bú ít nhất sáu tháng. Tránh hoặc hạn chế thời gian điều trị bằng hormone mãn kinh. Tránh hoặc bỏ thuốc lá. Hạn chế uống rượu. Duy trì cân nặng khỏe mạnh. mạnh mẽ. Hạn chế làm việc ban đêm. Áp dụng lối sống năng động. Điều này nên bao gồm ít nhất 150 phút hoạt động cường độ vừa phải hàng tuần, 75 phút hoạt động cường độ mạnh hàng tuần hoặc ít nhất một số hoạt động thể chất vượt quá thói quen thông thường của một người, ngoài việc hạn chế hành vi tĩnh.Ngoài ra, phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm được coi là chìa khóa thành công trong điều trị ung thư vú. Bằng các biện pháp điều trị đặc hiệu như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị và phối hợp với các phương pháp tiên tiến khác: liệu pháp nội tiết, sinh học (trị liệu đích), bệnh nhân ung thư vú có thể được cứu sống. Ung thư vú giai đoạn 1 thường có tỷ lệ sống cao (trên 5 năm) từ 80-90%.