Tỷ lệ mắc bệnh đa u tủy xương là khoảng 3 – 4/100.000 người; 1 – 2% khối u ác tính. Độ tuổi phổ biến: > 40, nam giới nhiều hơn nữ giới.
1. Tổng quan về đa u tủy
Đa u tủy là sự tăng sinh ác tính của các tế bào plasma trong tủy xương và một số cơ quan khác. Đa u tủy là một bệnh tăng sinh tế bào huyết tương dẫn đến: tăng globulin miễn dịch trong máu, hình thành nhiều ổ tái hấp thu xương dẫn đến gãy xương bệnh lý, rối loạn chức năng của nhiều cơ quan: suy thận, thiếu máu, giảm tiểu cầu, số lượng bạch cầu, tăng calci máu, triệu chứng thần kinh, bội nhiễm…
Bệnh nhân bị đa u tủy ở giai đoạn đầu có thể bị đau âm ỉ, sau đó là cơn đau dữ dội liên tục không thể chịu đựng được, vì vậy bệnh nhân cần hóa trị liệu toàn thân để kiểm soát khối u và điều trị các triệu chứng. để ngăn ngừa các biến chứng và kéo dài cuộc sống của bệnh nhân.
Bệnh có tỷ lệ tử vong cao trong giai đoạn đầu, một số có một quá trình mãn tính từ 2-5 năm sau khi chết. Nguyên nhân tử vong là suy thận, nhiễm trùng huyết, lan rộng khối u, nhồi máu cơ tim, bệnh phổi mãn tính, tiểu đường và đột quỵ. Hầu hết được phát hiện ở giai đoạn muộn. Hiện nay, có một kỹ thuật xạ hình xương để chẩn đoán sớm bệnh đa u tủy. Và đặc biệt là có một phương pháp mới, hiện đại, hiệu quả cao trong điều trị đa u tủy, đó là ghép tế bào gốc tạo máu, điều quan trọng nhất là bệnh nhân cần được chẩn đoán ở giai đoạn đầu.
2. Nguyên nhân của đa u tủy
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng bức xạ liều thấp làm tăng tỷ lệ mắc bệnh.
3. Các triệu chứng của đa u tủy
Người da đen có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với người da trắng và có độ tuổi khởi phát sớm hơn.
Đàn ông đau khổ hơn phụ nữ
Trên 40 tuổi
Đặc điểm di truyền
3. Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh đa u tủy
Các triệu chứng của đa u tủy có thể biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh. Bệnh không chỉ biểu hiện cục bộ mà còn biểu hiện ở nhiều cơ quan khác nhau do tăng tế bào plasma dẫn đến suy nội tạng, cụ thể là
Biểu hiện trong xương
Bệnh thường bắt đầu trong vài tuần hoặc vài tháng đầu, bệnh nhân cảm thấy mệt mỏi, suy nhược, sụt cân, kém ăn, đau xương nhẹ ở xương phẳng như xương sườn, cột sống, đau đầu, đau khớp.
Khi ở giai đoạn toàn diện, toàn bộ cơ thể bệnh nhân sụp đổ, đau xương, thường đau cột sống thắt lưng, đau ở hộp sọ, xương ức, đau liên tục, thuốc giảm đau không làm giảm đau, có thể có lá lách lớn, gãy xương tự phát.
Osteoma: Khoảng 10% bệnh nhân có dấu hiệu này; khối u mềm không đau nổi trên nền xương, đường kính từ 0,5cm đến 2cm; thường thấy ở các vị trí như sọ, xương đòn, xương ức, xương bả vai, cột sống… hiếm khi thấy ở chân tay.
X-quang: Tổn thương chính là mất vôi hóa hình thành các khuyết tật tròn hoặc hình bầu dục. Tùy thuộc vào số lượng và kích thước của khuyết tật xương, người ta mô tả là tổ sâu hoặc tổ ong. Tái hấp thu một phần hoặc một phần xương dài. Khi các khoang xương nhỏ và dày đặc, nó tạo ra bệnh loãng xương khuếch tán. Cơ thể của đốt sống bị biến dạng (lõm, dẹt, hình lưỡi), có thể di chuyển gây ra bệnh kyphosis.
Chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ để phát hiện tổn thương sớm hơn. Đặc biệt, phương pháp chụp X quang cho hình ảnh rõ ràng là rất có giá trị trong chẩn đoán sớm đa u tủy.
Biểu hiện ngoài xương
Tổn thương thận xảy ra trong 70% trường hợp: Protein niệu, vô niệu, suy giảm chức năng thận, suy thận mãn tính dần dần
Biểu hiện thần kinh: Do chèn ép trực tiếp các khối u hoặc tổn thương do globulin miễn dịch. Chèn ép tủy sống và rễ thần kinh biểu hiện như đau xuyên tâm, tổn thương dây thần kinh sọ não, viêm đa dây thần kinh, tăng áp lực nội sọ…
Thiếu máu, chảy máu do giảm tiểu cầu.
Nhiễm trùng: Viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu.
Tăng calci máu: Thờ ơ, mệt mỏi, trầm cảm, nôn mửa, rối loạn nước và điện giải, suy giảm ý thức, hôn mê,…
Các biểu hiện khác: Gan, lá lách, mở rộng hạch bạch huyết, rối loạn tiêu hóa,…