Ung thư biểu mô tuyến phổi là một bệnh khá phổ biến hiện nay. Đây là một dạng ung thư phổi không phải tế bào nhỏ và chiếm hơn 50% các trường hợp. Vậy nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị căn bệnh này là gì? Mời bạn đọc bài viết dưới đây để có câu trả lời cho những câu hỏi trên.
Nguyên nhân gây bệnh
Sự hình thành ung thư biểu mô tuyến được kết hợp bởi nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể là:
Khói
Những người hút thuốc có nguy cơ cao mắc ung thư biểu mô tuyến phổi vì khói thuốc lá chứa nhiều chất độc hại, đặc biệt là nicotine. Chúng làm hỏng các mô trong phổi, dẫn đến sẹo và phát triển khối u theo thời gian.
Các chuyên gia nói rằng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến phổi tăng lên với số lượng thuốc lá hút mỗi ngày. Nếu bạn là một người hút thuốc nặng, nguy cơ của bạn cao hơn khoảng 30 đến 40 lần so với người không hút thuốc.
Tiếp xúc với khói thuốc thụ động
Trên thực tế, ngay cả khi bạn không hút thuốc, bạn vẫn có thể hít phải chất gây ung thư từ khói thuốc lá. Điều này được gọi là hút thuốc thụ động. Nguy cơ mắc bệnh trong trường hợp này tương tự như những người hút thuốc hoạt động.
Tiếp xúc với khí radon
Radon là một loại khí phóng xạ không mùi, không vị được giải phóng từ uranium, thorium và radium phân hủy trong đá và đất. Nồng độ radon vượt quá ngưỡng quy định có thể là “thủ phạm” của ung thư biểu mô tuyến phổi tồn tại trong nhà riêng của bạn.
Tiếp xúc với amiăng
Amiăng là một trong những vật liệu phổ biến được sử dụng trong các tấm cách nhiệt xây dựng. Theo các chuyên gia, tiếp xúc với amiăng lâu dài có thể làm tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư biểu mô tuyến phổi.
Phương pháp điều trị
Việc điều trị ung thư biểu mô tuyến phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn của bệnh và sức khỏe chung của bệnh nhân. Hiện nay, một số phương pháp thường được sử dụng trong điều trị ung thư nói chung và ung thư biểu mô tuyến phổi nói riêng là:
Phẫu thuật
Khi phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, phẫu thuật là phương pháp ưa thích để áp dụng. Bởi vì tại thời điểm này, kích thước khối u nhỏ và chưa lan rộng, vì vậy khả năng chữa lành sau phẫu thuật là rất cao. Theo các chuyên gia, các trường hợp ung thư biểu mô tuyến phổi có tỷ lệ sống sót 5 năm khoảng 50%. Tuy nhiên, tại Việt Nam, số người phát hiện sớm bệnh còn rất ít nên hiệu quả của phương pháp này còn hạn chế, làm giảm thời gian sống sót của bệnh nhân.
Xạ trị
Đây là một phương pháp sử dụng chùm tia năng lượng cao để tiêu diệt các tế bào ung thư. Xạ trị có thể gây ra nhiều biến chứng ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân như chán ăn, buồn nôn, rụng tóc, đỏ da chiếu xạ, đau rát, viêm, sưng, lở loét, da khô, viêm gan,…
Valence
Hóa trị là một phương pháp điều trị bằng thuốc toàn thân, thường được đưa ra thông qua tĩnh mạch. Tác dụng của thuốc là tiêu diệt các tế bào ung thư ở bất cứ đâu trong cơ thể. Tuy nhiên, nó cũng giết chết các tế bào khỏe mạnh, gây ra nhiều tác dụng phụ như: Buồn nôn, nôn, thiếu máu, suy nhược, suy yếu hệ thống miễn dịch, giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng, rụng tóc ,…
Liệu pháp nhắm mục tiêu
Đây là phương pháp sử dụng thuốc điều trị để ngăn chặn các gen đột biến của tế bào ung thư, từ đó giúp ngăn chặn sự phát triển và thu nhỏ kích thước của khối u. Phương pháp điều trị này có thể giúp bệnh nhân được điều trị bằng hóa trị và xạ trị, không hiệu quả, sống được từ 5 đến 10 năm. Tuy nhiên, phương pháp này gây ra một số tác dụng phụ như phát ban da, tiêu chảy, đau dạ dày, huyết áp cao, v.v.
Liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch là một phương pháp điều trị nhằm mục đích tăng các tế bào miễn dịch để chống lại ung thư. Thay vì cố gắng ngăn chặn hoặc tiêu diệt các tế bào ung thư trực tiếp như các phương pháp điều trị khác, liệu pháp này giúp hệ thống miễn dịch tự nhiên nhận ra các tế bào ác tính và tiêu diệt chúng. Tuy nhiên, chi phí thực hiện khá cao, ít người mắc bệnh có khả năng chi trả.
Thuốc ức chế sự hình thành các mạch máu mới
Các khối u phổi cần chất dinh dưỡng và oxy từ các mạch máu để phát triển và di căn. Đây là những loại thuốc có thể ngăn ngừa sự hình thành các mạch máu mới, “cắt đứt” dinh dưỡng và oxy cho khối u. Đây là chiến lược “bỏ đói” khối u. Tuy nhiên, tạo mạch rất quan trọng trong nhiều quá trình cơ thể bình thường. Do đó, các loại thuốc ức chế tạo mạch có thể gây ra nhiều tác dụng phụ như huyết áp cao, da khô và ngứa, giảm số lượng tế bào máu, khó chữa lành vết thương, v.v.