Ung thư tuyến nước bọt là một căn bệnh khá hiếm gặp, nhưng hậu quả mà bệnh có thể gây ra là rất lớn nếu bạn vô tình bị nhiễm bệnh.
Tuyến nước bọt bao gồm các tuyến nước bọt lớn và nhỏ, trong đó các khối u tuyến parotid chiếm 80%. Theo GLOBOCAN 2018, có 353 trường hợp ung thư tuyến nước bọt mới mỗi năm và đứng thứ 23 trong số tất cả các bệnh ung thư. Tuổi phổ biến của ung thư biểu mô tuyến parotid là khoảng 55 tuổi, mô bệnh học phổ biến là ung thư biểu mô biểu mô nhầy và ung thư biểu mô tuyến nang.
Trong hầu hết các trường hợp, không có nguyên nhân etiologic được tìm thấy. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy có một số yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh: tiếp xúc với bức xạ ion hóa, một số loại virus (Epstein Barr, Papiloma…), tiếp xúc với bụi công nghiệp (bụi) niken, amiăng…). Phẫu thuật cắt bỏ khối u ở giai đoạn đầu mang lại tiên lượng tốt, khi khối u xâm lấn hoặc di căn hạch bạch huyết khu vực, cần kết hợp xạ trị và hóa trị.
Các giai đoạn bệnh
Giai đoạn 1: Đây là giai đoạn mà các tế bào ung thư chỉ mới bắt đầu xuất hiện và chưa có bất kỳ triệu chứng nào để bệnh nhân cảm nhận.
Giai đoạn 2: Các tế bào ung thư bắt đầu phát triển và lan sang một số khu vực lân cận
Giai đoạn 3: Các tế bào ung thư phát triển mạnh mẽ và bệnh nhân cảm thấy các dấu hiệu mệt mỏi, đau đớn và khó chịu.
Giai đoạn 4: Giai đoạn cuối của ung thư tuyến nước bọt và bệnh nhân không có khả năng chữa khỏi và cơ hội sống sót thấp.
Con đường lây truyền
Bệnh không lây truyền sang người khỏe mạnh bằng bất kỳ phương tiện nào, bao gồm chia sẻ thức ăn và hôn.
Các đối tượng có nguy cơ mắc bệnh
Một yếu tố nguy cơ là bất cứ điều gì ảnh hưởng đến khả năng mắc bệnh như ung thư. Các bệnh ung thư khác nhau có những rủi ro khác nhau. Chỉ vì một người có một yếu tố nguy cơ hoặc thậm chí nhiều yếu tố nguy cơ không có nghĩa là người đó chắc chắn sẽ mắc bệnh. Và nhiều người mắc bệnh có thể có ít hoặc không có yếu tố nguy cơ được biết đến. Một vài yếu tố nguy cơ đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ phát triển bệnh bao gồm:
Nguy cơ tuyến nước bọt tăng lên theo tuổi tác ngày càng tăng.
Bệnh phổ biến hơn ở nam giới so với phụ nữ.
Tiếp xúc với bức xạ. Xạ trị vùng đầu và cổ vì các lý do y tế khác làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt. Tiếp xúc tại nơi làm việc hoặc trong môi trường có một số chất phóng xạ cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Một số nghiên cứu cho thấy những người làm việc với một số kim loại nhất định (bụi hợp kim niken) hoặc khoáng chất (bụi silicon) và những người làm việc trong khai thác amiăng, hệ thống ống nước hoặc sản xuất sản phẩm cao su và một số loại chế biến gỗ có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tuyến nước bọt ung thư, nhưng những mối liên hệ này không chắc chắn.
Sử dụng thuốc lá và rượu. Thuốc lá và rượu có thể làm tăng nguy cơ mắc một số bệnh ung thư đầu và cổ, nhưng chúng không liên quan chặt chẽ với ung thư tuyến nước bọt trong hầu hết các nghiên cứu.
Chế độ ăn uống. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng chế độ ăn ít rau và nhiều chất béo động vật có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến nước bọt.
Kết luận
Ung thư tuyến nước bọt có tiên lượng tốt khi bệnh ở giai đoạn đầu và trải qua phẫu thuật triệt để với đánh giá đa chuyên khoa cẩn thận, tiên lượng xấu khi không thể hoạt động và bệnh tiến triển.
Sau khi điều trị, cần theo dõi 1-3 tháng một lần trong năm đầu tiên, cứ sau 4-6 tháng trong năm thứ hai và cứ sau 8 tháng một lần trong những năm tiếp theo. Sau 5 năm, bạn có thể kiểm tra lại mỗi năm một lần.
Để ngăn ngừa ung thư tuyến nước bọt, bạn cần giữ cho răng sạch sẽ, ít nhất 2 lít nước mỗi ngày. Không hút thuốc lá, thuốc lá ống, hạn chế rượu bia và cần có chế độ ăn uống, sinh hoạt khoa học.
Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn hoặc https://nhathuochapu.vn