Chẩn đoán và điều trị bệnh Nocardia

Bệnh Nocardia phổi hoặc Nocardia Nhiễm trùng là một rối loạn ảnh hưởng đến phổi, não và da, xảy ra chủ yếu ở những người có hệ thống miễn dịch yếu.

Các biện pháp chẩn đoán bệnh Nocardia

Các tiêu chí chẩn đoán để xác định nguyên nhân của Nocardia là nuôi cấy và cô lập vi khuẩn trong mẫu bệnh phẩm. Tuy nhiên, việc chẩn đoán thường khó khăn vì các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu và không có khả năng nuôi cấy Nocardia. Trong các nghiên cứu khác nhau, thời gian trung bình từ khi bắt đầu các triệu chứng đến chẩn đoán dao động từ 40 ngày đến 12 tháng. Một số kỹ thuật và xét nghiệm vi sinh được sử dụng là:

Gram vết bẩn: vi khuẩn thường có hình que mỏng, hoặc sợi, phân nhánh và Gram dương trong các mẫu vật lâm sàng.

Nuôi cấy vi khuẩn: Trong các nền văn hóa hiếu khí thông thường, các loài Nocardia có hình thái thuộc địa thay đổi, từ trắng đến cam, vàng hoặc nâu sắc tố. Vi khuẩn cần trung bình 5-21 ngày để phát triển. Khi bác sĩ lâm sàng nghi ngờ bệnh nocardia, cần phải thông báo cho khoa vi sinh để có thời gian nuôi cấy và lưu giữ thích hợp. Ngoài ra, việc nuôi cấy và phân lập vi khuẩn sẽ giúp làm thuốc kháng sinh, đánh giá độ nhạy kháng sinh của vi khuẩn, từ đó hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng trong điều trị bệnh.

Xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR): có thể cho kết quả nhanh hơn và chính xác hơn so với các phương pháp thông thường, nhưng không có sẵn trong tất cả các cơ sở y tế, đòi hỏi kỹ thuật và máy móc hiện đại. .

Mô bệnh học: có hoại tử và áp xe, xâm nhập vào bạch cầu trung tính, tế bào lympho, tế bào plasma và đại thực bào, đôi khi vi khuẩn có thể được nhìn thấy trên bệnh lý mẫu mô.

Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh như: nhiễm trùng do nấm (Hisptoplasma, Cryptococcus,…); bệnh lao phổi và ngoài phổi như lao hệ thần kinh trung ương; nhiễm trùng do vi khuẩn khác gây ra; các khối u ác tính như ung thư phổi; nhiễm ký sinh trùng trong hệ thần kinh trung ương như Toxoplasma, tổn thương da do các nguyên nhân vi sinh khác như Leshmaniasis da, lao da, v.v.

Các biện pháp điều trị bệnh Nocardia

Tính nhạy cảm kháng sinh của các loài Nocardia: Trong các nghiên cứu khác nhau, tỷ lệ kháng kháng sinh của các loài Nocardia là khác nhau. Nói chung: N. farcinica nhạy cảm với Amikacin, nhưng kháng các aminoglycoside khác, nhiều chủng vẫn nhạy cảm với TMP – SMX (Trimethoprim và Sulfamethoxazole), thường kháng kháng sinh cephalosporin thế hệ thứ ba; N.nova cũng nhạy cảm với TMP-SMX, cephalosporin thế hệ thứ ba và clarithromycin, tuy nhiên, đã có báo cáo rằng khoảng 53% các chủng N.nova có khả năng kháng cả TMP-SMX và cephalosporin thế hệ thứ ba, hầu hết các phân lập đều nhạy cảm với imipenem và amikacin; N. cyriacigeorgica và N. áp xe nói chung vẫn nhạy cảm với TMP-SMX, imipenem và ceftriaxone, amikacin,,…; N. brasiliensis dễ bị TMP-SMX và amikacin, và tính nhạy cảm với cephalosporin là thay đổi. Tất cả các loài được mô tả ở trên đều dễ bị linezolid.

Vì các chủng Nocardia có thể có tính nhạy cảm kháng sinh khác nhau, việc lựa chọn liệu pháp kháng sinh nên được cá nhân hóa dựa trên các yếu tố lâm sàng, kết quả nuôi cấy và antibiogram.

Nhiễm trùng da: Trong hầu hết các trường hợp, liệu pháp kháng sinh đường uống có thể được sử dụng. Ban đầu nên sử dụng TMP-SMX với liều TMP từ 5 – 10 mg/kg/ngày chia làm 2 – 3 lần/ngày. Có thể minocycline 100 mg hai lần một ngày. Ngoài ra, các loại kháng sinh sau đây có thể được xem xét nếu vi khuẩn dễ bị nhiễm: Amoxicillin-clavulanate, doxycycline, macrolides và fluoroquinolones. Mặc dù Linezolid mạnh chống lại Nocardia, tuy nhiên, tránh lạm dụng thuốc và chú ý đến tác dụng phụ. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, sử dụng kháng sinh tiêm tĩnh mạch như amikacin, imipenem, v.v. Thời gian điều trị thường kéo dài vì nguy cơ. tái phát, khoảng 3 đến 6 tháng, có thể kéo dài 6 đến 12 tháng tùy từng trường hợp.

Nhiễm trùng ở phổi:

Nhẹ đến trung bình: TMP-SMX uống với liều 10 đến 15 mg / kg TMP trong 2 liều chia / ngày. Điều chỉnh liều lượng là cần thiết ở những bệnh nhân bị suy giảm chức năng thận.

Nặng hoặc khuếch tán: TMP-SMX IV với liều TMP 15 mg/kg chia 3-4 lần/ngày kết hợp với amikacin 7,5 mg/kg mỗi 12 giờ. Thay thế bằng Imipenem 500 mg/ lần mỗi 6 giờ kết hợp với liều amikacin như trên. Một số loại kháng sinh vẫn còn nhạy cảm như cephalosporin thế hệ thứ ba có thể được sử dụng. Thời gian điều trị kháng sinh tiêm tĩnh mạch là khoảng 6 tuần, sau khi cải thiện, chuyển sang phác đồ uống như TMP-SMX, Amoxicillin-clavulanate, minocycline, v.v., thường kéo dài 3-12 tháng theo phản ứng của con người. đau.

Trong trường hợp nhiễm trùng huyết, nhiễm trùng phổ biến (không có nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương) điều trị tương tự như nhiễm trùng phổi nặng.

Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương: IV TMP-SMX với liều TMP 15 mg/kg chia 3 đến 4 lần/ngày kết hợp với Imipenem 500 mg/lần mỗi 6 giờ (lưu ý các tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương). Imipenem) hoặc thay thế bằng Amikacin 7,5 mg/ kg mỗi 12 giờ, Linezolid 600 mg mỗi 12 giờ một lần kết hợp với Meropenem 2 g mỗi 8 giờ một lần (nếu nhạy cảm). Thời gian sử dụng kháng sinh tiêm tĩnh mạch thường ít nhất từ 3 – 6 tuần, tình trạng cải thiện các loại kháng sinh đường uống như TMP-SMX, Amoxicillin-clavulanate, minocycline,… từ 3 – 6 tháng, ít nhất 1 năm bị suy giảm miễn dịch cơ bắp.

Áp xe cần được tư vấn phẫu thuật để can thiệp khi được chỉ định.

Chú ý đến tác dụng phụ của kháng sinh khi sử dụng lâu dài, tư vấn cho bệnh nhân tuân thủ điều trị, kiểm tra theo dõi để đánh giá đáp ứng điều trị và ngăn ngừa tái phát.

Original

The diagnostic criteria for determining the etiology of Nocardia are culturing and isolating the bacteria in the specimens.