Chấn thương cột sống là một loại chấn thương phổ biến trong tai nạn giao thông, tai nạn lao động và thậm chí là tai nạn thể thao. Khi bị các tai nạn này, bệnh nhân cần được cấp cứu khẩn cấp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, do vội vàng, chấn thương cột sống có thể bị bỏ qua, hoặc các hành động cấp cứu và vận chuyển bệnh nhân không chính xác làm cho chấn thương cột sống trở nên tồi tệ hơn.
1. Nguyên nhân gây chấn thương cột sống
Có nhiều nguyên nhân gây chấn thương tủy sống, bao gồm:
Do tai nạn giao thông.
Do tai nạn lao động như ngã từ trên cao, gây sụt lún. xẹp và gãy đốt sống.
Do chấn thương thể thao như: đạp xe, đua ngựa, xiếc, võ thuật, bóng đá,…
Do vũ khí bắn như đạn,…
Bởi vì nạn nhân đã tự tử bằng cách siết cổ, nó có thể gây gãy xương cột sống cổ.
Các nguyên nhân trên có thể gây chấn thương cột sống ở các mức độ khác nhau như dịch chuyển, vỡ, sụt lún cột sống, chèn ép, phù, chảy máu và thậm chí có thể gây vỡ tủy sống nằm ngang.
2. Biến chứng chấn thương cột sống
Các biến chứng thường gặp sau chấn thương tủy sống là:
Rối loạn hoặc mất vận động: Bệnh nhân có thể bị giảm hoặc mất vận động tích cực ở cả hai chân (khi đoạn ngực hoặc thắt lưng bị tổn thương) hoặc cả cánh tay và chân (khi cổ bị tổn thương). Bệnh nhân bị loạn trương lực cơ gây co thắt, co cứng, teo hoặc cứng cơ, hóa thạch ngoài tử cung, loãng xương và ống tiêm sau chấn thương.
Rối loạn cảm giác: Bệnh nhân đã giảm hoặc mất cảm giác dưới vùng tủy sống bị tổn thương. Rối loạn cảm giác có thể gây ra các triệu chứng tê và đau, và cũng có thể dẫn đến các biến chứng và chấn thương thứ phát như loét áp lực,…
Rối loạn thần kinh tự trị như: đây là một loại rối loạn phản xạ tự trị, tăng tiết mồ hôi, hạ huyết áp tư thế, rối loạn điều nhiệt, rối loạn tiểu tiện, biến chứng hô hấp, biến chứng về tiết niệu, huyết khối do huyết khối,…
3. Làm thế nào để điều trị chấn thương cột sống?
Điều trị chấn thương cột sống phụ thuộc vào vị trí và mức độ chấn thương. Người bệnh cần được phát hiện và điều trị kịp thời.
Trong trường hợp chấn thương nhẹ, nó có thể được điều trị bằng các phương pháp bảo tồn, điều trị bằng thuốc, vật lý trị liệu kết hợp với liệu pháp chỉnh hình.
Trong trường hợp tổn thương nặng, hoặc không đáp ứng với các phương pháp điều trị bảo tồn, cần phải phẫu thuật.
Thuốc giảm đau giúp giảm đau nhanh chóng và tức thì, nhưng cần được xem xét với việc sử dụng kéo dài. Bởi việc sử dụng thuốc giảm đau lâu dài sẽ gây ra những tác dụng phụ có hại cho gan và thận.
Phẫu thuật là phương pháp điều trị cuối cùng khi tổn thương cột sống nghiêm trọng. Tuy nhiên, bạn cũng cần cẩn thận vì:
Nó có thể làm cho tình trạng tồi tệ hơn nếu cơ thể bệnh nhân không thích nghi với các vật lạ được đưa vào cơ thể.
Thời gian phục hồi lâu.
Nguy cơ biến chứng và nhiễm trùng cao.
Các vận động viên sau phẫu thuật có thể phải từ bỏ các môn thể thao chuyên nghiệp, bởi vì cơ thể rất khó khôi phục phạm vi chuyển động và chức năng ban đầu.
4. Di chứng của chấn thương cột sống
Chấn thương cột sống khi được phát hiện và điều trị sớm có thể làm giảm nguy cơ di chứng, nhưng trong trường hợp chấn thương nặng, nguy cơ di chứng là rất cao. Các di chứng thường gặp của chấn thương cột sống là:
Liệt tứ chi
Tê liệt cả hai chi dưới
5. Điều trị đau sau phẫu thuật
Khi bệnh nhân trải qua quá trình phục hồi chức năng, mục đích chính là giúp bệnh nhân phục hồi chức năng vận động bị mất, hoặc nếu không còn cơ hội phục hồi khả năng vận động, phục hồi chức năng giúp hướng dẫn bệnh nhân sử dụng các thiết bị hỗ trợ vận động như xe lăn, nạng, niềng răng… để có thể thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày một cách độc lập nhất có thể. Qua đó giúp người bệnh hòa nhập với gia đình, cộng đồng.
Về tình trạng cơ thể: Ngăn ngừa loét tỳ đè là rất quan trọng, cần sử dụng đệm chống loét (đệm không khí hoặc đệm nước), thay đổi tư thế bệnh nhân 2 giờ một lần bằng kỹ thuật tư thế. Để loại bỏ áp lực, giữ cho da vùng dễ bị loét luôn khô ráo và sạch sẽ, phát hiện sớm những vùng da có nguy cơ bị loét để kịp thời xử lý, chăm sóc và điều trị loét.
Chăm sóc chức năng tiết niệu: Uống đủ nước (khoảng 2 lít/ngày kể cả bữa ăn), đặt ống thông tiểu trong giai đoạn sốc cột sống, sau đó đặt ống thông ngắt quãng 4 giờ/lần, hướng dẫn bệnh nhân tự đặt ống thông Sau khi xuất viện, thực hành phục hồi chức năng bàng quang và phát hiện sớm điều trị nhiễm trùng tiết niệu.
Phục hồi chức năng tiêu hóa: Ăn chế độ ăn uống đầy đủ dinh dưỡng với lượng chất xơ phù hợp, tập đại tiện cố định, tập thể dục thường xuyên và hướng dẫn người bệnh tự đi đại tiện.
Kiên trì vận động: Ngăn ngừa nhiều biến chứng và chấn thương thứ phát cho người bị chấn thương tủy sống như loét tỳ đè da, nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm trùng tiết niệu, huyết khối tĩnh mạch sâu, teo cơ, cứng khớp, co bóp và dị dạng… Chương trình tập thể dục bao gồm các bài tập thở, bài tập ho, bài tập tư thế đúng, loạt bài tập chuyển động, bài tập vận động trên giường, chuyển từ giường sang xe lăn và ngược lại, thực hành tăng cường cơ bắp, thực hành cân bằng ngồi tĩnh và động, tập đi bộ, thực hành với các thiết bị hỗ trợ.
Tóm lại, chấn thương cột sống là một tình trạng bệnh lý phức tạp với nhiều cấp độ khác nhau. Do đó, khi có nghi ngờ chấn thương cột sống, bệnh nhân cần được khám, khám, đánh giá mức độ chấn thương, từ đó các chuyên gia sẽ đưa ra phương pháp điều trị phù hợp. Phát hiện và điều trị sớm sẽ giúp giảm biến chứng, di chứng tổn thương cột sống cho người bệnh.