Chuẩn đoán và điều trị bệnh HIV

Bệnh HIV không thể chữa khỏi và không có thuốc phòng ngừa. Tuy nhiên điều trị bằng thuốc kháng virus có thể làm chậm tiến trình bệnh kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.

Đối tượng có nguy cơ mắc bệnh HIV

Với các con đường lây truyền HIV, các đối tượng có nguy cơ nhiễm HIV có thể là:

Những người dùng chung đồ vật đâm trực tiếp vào cơ thể như tiêm chích ma túy, xăm mình hoặc những người dùng chung đồ vật hoặc tiếp xúc trực tiếp với người nhiễm HIV

Những người quan hệ tình dục bừa bãi, quan hệ tình dục với nhiều người, mại dâm, v.v.

Trẻ em có mẹ bị nhiễm HIV trước và trong khi mang thai và cho con bú

Các biện pháp chẩn đoán bệnh HIV

Bởi vì các triệu chứng của HIV ở giai đoạn đầu hoặc tiến triển là không điển hình và dễ nhầm lẫn với các bệnh khác, phương pháp chẩn đoán HIV xác định dựa trên xét nghiệm.

Các loại xét nghiệm HIV sau đây có sẵn:

Xét nghiệm axit nucleic (NAT): xét nghiệm này giúp tìm hiểu xem virus HIV có thực sự có trong máu hay không và cho thấy lượng virus trong máu. Xét nghiệm NAT khá chính xác trong giai đoạn đầu của nhiễm HIV, nhưng nó rất tốn kém và chỉ được sử dụng khi bệnh nhân có nguy cơ phơi nhiễm HIV cao hoặc có triệu chứng sớm của HIV.

Xét nghiệm kháng nguyên/kháng thể: xét nghiệm được sử dụng để tìm cả kháng nguyên HIV và kháng thể

Xét nghiệm kháng thể: Hầu hết các xét nghiệm nhanh hoặc xét nghiệm tại nhà là xét nghiệm kháng thể, xét nghiệm kháng thể HIV sử dụng máu tiêm tĩnh mạch phát hiện HIV sớm hơn xét nghiệm dịch tiết cơ thể

Khi bất kỳ xét nghiệm kháng thể nào là dương tính, cần phải xét nghiệm theo dõi để xác nhận kết quả.

Các biện pháp điều trị bệnh HIV

Hiện nay, chưa có vắc-xin để ngăn ngừa nhiễm HIV và không có phương pháp cụ thể nào có thể loại bỏ hoàn toàn virus HIV ra khỏi cơ thể.

Tuy nhiên, nhờ liệu pháp kháng retrovirus (ART) sử dụng thuốc ARV, làm chậm sự nhân lên của HIV trong cơ thể, tăng cường hệ thống miễn dịch và giúp đỡ những người bị AIDS, chất lượng cuộc sống đã được cải thiện đáng kể. thuật lại

Các lựa chọn hiện tại là sự kết hợp của hai hoặc nhiều loại thuốc kháng retrovirus và một chất ức chế protease hoặc một chất ức chế phiên mã ngược nnon-nucleoside (NNRTI). Với điều trị như vậy, kết quả HIV âm tính lặp đi lặp lại đã được hiển thị, nhưng virus sẽ tăng trở lại khi ngừng điều trị.

Description: https://ssl.microsofttranslator.com/static/27420612/img/tooltip_logo.gif
Description: https://ssl.microsofttranslator.com/static/27420612/img/tooltip_close.gif

Original

Prevention of HIV disease

HIV đã lây lan trong hai mô hình dịch tễ học:

Những người đàn ông có quan hệ tình dục với nam giới hoặc tiếp xúc với máu bị ô nhiễm (ví dụ, thông qua việc dùng chung kim tiêm với người sử dụng ma túy, thông qua truyền máu trước khi sàng lọc HIV ở người hiến tặng)

Quan hệ tình dục đồng giới (ảnh hưởng đến nam giới và phụ nữ như nhau)

Ở hầu hết các quốc gia, cả hai mô hình đều xảy ra, nhưng mô hình trước đây thường chiếm ưu thế ở các nước phát triển; Mô hình thứ hai chiếm ưu thế ở châu Phi, Nam Mỹ và Nam Á.

Ở những khu vực chiếm ưu thế về lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV có thể lây lan qua vận chuyển, vận chuyển và chuyển vùng kinh tế từ các thành phố và đến khu vực nông thôn. Ở châu Phi, đặc biệt là ở Nam Phi, đại dịch HIV đã giết chết hàng chục triệu thanh niên, tạo ra hàng triệu trẻ mồ côi. Các yếu tố kéo dài sự lây lan bao gồm

Nghèo

Trình độ học vấn thấp

Hệ thống chăm sóc sức khỏe không có quyền truy cập vào xét nghiệm HIV và thuốc kháng virus

Tuy nhiên, thông qua một nỗ lực quốc tế, tính đến năm 2016, ước tính có khoảng 19,5 triệu người nhiễm HIV được tiếp cận với liệu pháp kháng virus, làm giảm đáng kể số ca tử vong và lây truyền ở nhiều quốc gia.

Nhiều bệnh nhiễm trùng cơ hội ở bệnh nhân HIV kích hoạt nhiễm trùng tiềm ẩn. Do đó, các yếu tố dịch tễ học xác định tần suất nhiễm trùng tiềm ẩn cũng ảnh hưởng đến khả năng nhiễm trùng cơ hội cụ thể. Ở nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ mắc bệnh lao tiềm ẩn và bệnh toxoplasmosis trong dân số nói chung cao hơn so với các nước phát triển. Sự gia tăng đáng kể bệnh lao tái kích hoạt và viêm não độc hại đã dẫn đến dịch bệnh ức chế miễn dịch do HIV gây ra ở các quốc gia này. Tương tự như vậy ở Hoa Kỳ, tỷ lệ coccidioides, phổ biến ở Tây Nam, và histoplasmosis, phổ biến ở Trung Tây, đã tăng lên do nhiễm HIV.

Herpesvirus 8 ở người, gây ra Kaposi sarcoma, phổ biến ở người đồng tính luyến ái và lưỡng tính nhưng không phổ biến ở các bệnh nhân HIV khác ở Mỹ và châu Âu. Do đó, tại Hoa Kỳ, >90% bệnh nhân AIDS mắc sarcoma Kaposi là nam giới đồng tính luyến ái.

Phòng ngừa bệnh HIV

Có một số cách để phòng ngừa HIV cho chính mình được quan tâm, chẳng hạn như:

Hiểu cách lây lan HIV để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa phơi nhiễm với các đường lây truyền HIV

Tránh uống rượu bia và tuyệt đối không sử dụng ma túy là những chất ảnh hưởng đến khả năng suy nghĩ và hành động, thúc đẩy các hành vi không an toàn làm tăng nguy cơ nhiễm HIV.

Quan hệ tình dục an toàn: sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, nếu bạn tình của bạn dương tính với HIV, hãy thực hành quan hệ tình dục an toàn và được xét nghiệm HIV thường xuyên.

Không bao giờ dùng chung kim tiêm: đây là một cách dễ dàng để truyền HIV từ người này sang người khác

Tránh chạm vào máu của người khác và các chất dịch cơ thể khác, bao gồm tinh dịch, dịch âm đạo, niêm mạc trực tràng, sữa mẹ, nước ối, dịch não tủy và dịch hoạt dịch trong khớp