Có bao nhiêu loại bướu cổ?

Bướu cổ là một bệnh của tuyến giáp, một tuyến nội tiết nằm ở phần trước và dưới của cổ, ấn vào các bề mặt bên của thanh quản và các vòng đầu tiên của khí quản.

Có ba loại bướu cổ chính:

1. Bướu cổ đơn thuần

1.1. Bướu cổ đơn thuần là gì?

Bướu cổ đơn thuần (thường được gọi là bướu cổ lành tính) là bướu cổ phổ biến nhất, chiếm 80%. Đây là tình trạng sưng của tuyến giáp không phải do ung thư hoặc viêm, và không có dấu hiệu của tuyến giáp hoạt động quá mức hoặc hoạt động kém. Bệnh phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới. Bướu cổ đơn thuần thường là euthyroid (không thay đổi hormone tuyến giáp).

1.2. Nguyên nhân gây bướu cổ đơn thuần

Bướu cổ đơn thuần thường do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra, bao gồm: thiếu i-ốt (nguyên nhân chính), rối loạn nội tiết tố nữ xảy ra ở trẻ gái vị thành niên, phụ nữ mang thai, phụ nữ tiền mãn kinh do chất kháng giáp (có trong bắp cải trắng, thuốc kháng giáp trong sắn, do bất thường trong tổng hợp hormone tuyến giáp, mất i-ốt do tiêu chảy kéo dài, hội chứng thận hư…

1.3. Xác định bệnh bướu cổ đơn thuần

Bướu cổ đơn thuần biểu hiện dưới hai dạng:

Bướu cổ lan tỏa (tuyến giáp mở rộng đều)

Bướu cổ hạch (có một hoặc nhiều nốt sần).

Trong trường hợp bướu cổ đơn thuần (còn được gọi là bướu cổ đơn nhân lành tính): bệnh nhân sẽ thấy một khối u ở giữa cổ, sờ thấy có ranh giới rõ ràng, không dính vào da, không đau, mềm hoặc mềm. chắc, di chuyển theo nhịp nuốt lên nuốt xuống, khi khối u lớn có thể gây chèn ép.

Trong trường hợp bướu cổ đa bào đơn giản (hay còn gọi là bướu cổ đa bào lành tính), bệnh nhân tìm thấy nhiều khối tròn có đường kính từ 0,5 đến vài cm ở vùng cổ.

Bướu cổ đơn giản thường tinh tế, không có triệu chứng rõ ràng, không đau và thường được phát hiện tình cờ trong khi khám sức khỏe tổng quát. Khi bướu cổ phát triển đến kích thước lớn, nó có thể gây ra các dấu hiệu chèn ép của các cơ quan và tổ chức xung quanh như:

Chèn ép khí quản gây khó thở

Chèn ép dây thần kinh tái phát gây khó nói, khàn giọng và giọng nói kép

Chèn ép tĩnh mạch chủ trên gây phù nề hình áo bao gồm phù mặt, cổ, ngực và cánh tay với tuần hoàn tài sản thế chấp ở ngực.

1.4. Bướu cổ đơn thuần có cần phẫu thuật không?

Với bướu cổ đơn giản với sự mở rộng lan tỏa của tuyến giáp (bướu cổ phân tán), bệnh nhân chỉ cần được điều trị bằng thuốc để cho kết quả rất tốt.

Riêng đối với bướu cổ đơn nốt hoặc bướu cổ đa bào (lành tính): nếu điều trị bằng thuốc không hiệu quả trong 6 tháng thì phải phẫu thuật.

Thông thường, bệnh nhân phát hiện sớm khối u, đi khám ngay sẽ có kết quả tốt hơn vì nếu để lâu: xung quanh nhân sẽ có vùng xơ không đáp ứng với thuốc. Ngoài ra, một số bệnh nhân bướu cổ nốt sẽ phải phẫu thuật sớm, dù chưa hoàn thành điều trị nội khoa (kèm thuốc) khi bướu cổ có biến chứng gây chèn ép, khó thở, tăng trưởng nhanh, bướu cổ xuất huyết. Bướu cổ hoặc bệnh nhân cao tuổi bị khàn giọng không loại trừ ung thư. Cần chú ý đặc biệt đến các bé gái ở tuổi dậy thì (12-18 tuổi) hoặc phụ nữ mang thai có tuyến giáp hơi to, phình động mạch lan tỏa. Triệt để là một hiện tượng sinh lý, hoàn toàn không có chỉ định phẫu thuật.

2. Bướu cổ do cường giáp

Bướu cổ cường giáp, còn được gọi là cường giáp, thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi từ 20 đến 45. Bướu cổ cường giáp là một bệnh của tuyến giáp, trong đó hormone tuyến giáp được sản xuất quá mức.

Nguyên nhân phổ biến nhất là bệnh basedow với bướu cổ lan tỏa có hoặc không có phần nhô ra, phần còn lại là cường giáp với bướu cổ đa bào độc hại. Bất kể nguyên nhân là gì, biểu hiện chung của bướu cổ cường giáp là cường giáp: tay run rẩy, nhịp tim nhanh, hồi hộp, ăn nhiều nhưng gầy (một số bệnh nhân giảm 10kg trong ba tháng) và thường nóng tính bất thường. .

Đối với bướu cổ cường giáp, điều trị chủ yếu bằng thuốc kháng giáp tổng hợp, thuốc tim mạch. Bệnh nhân sẽ hồi phục nhanh chóng và trở lại trạng thái bình thường. Thời gian điều trị khoảng 12-18 tháng, thường cho kết quả rất tốt cho bệnh cường giáp, trong đó bướu cổ lan tỏa độ 1 hoặc tuyến giáp vẫn ở kích thước bình thường. Tuy nhiên, đối với bệnh cường giáp có bướu cổ dạng nốt hoặc tuyến giáp lớn độ 2, 3, sau khi điều trị nội khoa ổn định (tăng cân, run ngừng, hết đánh trống ngực, tim đập bình thường, mạch ngừng nhanh). ) nên kết hợp với phẫu thuật để có kết quả điều trị tốt hơn.

3. Ung thư tuyến giáp

Biểu hiện của ung thư tuyến giáp (bướu cổ ác tính) ở giai đoạn đầu tương tự như bướu cổ đơn giản (bướu cổ lành tính). Bệnh thường gặp ở người trung niên và cao tuổi, ở nhóm bệnh nhân bướu cổ đơn nhân. Tuy nhiên, ở những bệnh nhân cường giáp, bướu cổ đa bào và bướu cổ lan tỏa… Ngoài ra còn có một tỷ lệ nhỏ ung thư tuyến giáp. Ở giai đoạn muộn, bệnh nhân bị khàn giọng không hồi phục.

Với bướu cổ trong ung thư tuyến giáp, hướng điều trị là loại bỏ tất cả thùy tuyến giáp ung thư, cắt eo đất và loại bỏ các hạch bạch huyết. Nếu có di căn hạch, hãy loại bỏ tất cả các thùy, loại bỏ các hạch bạch huyết, chấp nhận suy giáp và được điều trị hỗ trợ hormone tuyến giáp suốt đời.

Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn hoặc https://nhathuochapu.vn

https://ungthuphoi.com.vn