Hẹp lại sau khi nong mạch và đặt stent

Can thiệp mạch vành bằng phương pháp nong mạch bằng bóng hoặc đặt stent là một kỹ thuật điều trị hiện đại cho hẹp động mạch vành. Tuy nhiên, các biến chứng của bệnh restenosis sau khi đặt stent động mạch vành là một vấn đề quan tâm đến sức khỏe của bệnh nhân.

1. Tỷ lệ hẹp lại sau khi nong mạch và đặt stent

Trong giai đoạn đầu với sự can thiệp bằng cách giãn bóng một mình (chèn một quả bóng vào vị trí hẹp và phồng lên để mở rộng động mạch vành tại vị trí đó), tỷ lệ tái phát xảy ra tương đối cao (40 – 50%), do co mạch.

Hiện nay, can thiệp mạch vành là sự kết hợp giữa nong mạch vành và đặt stent gọi là stent, giúp các bác sĩ thành công hơn trong việc hạn chế tái phát sau can thiệp. Với giá đỡ kim loại trần (stent trần), tỷ lệ tái tạo trong stent là 20-30% trong 12 tháng và tỷ lệ này thấp hơn với stent tẩm thuốc. Đối với thế hệ thuốc đầu tiên, tỷ lệ tái phát là khoảng 15% sau 5 năm. Với một số stent loại bỏ thuốc thế hệ mới, tỷ lệ này giảm xuống còn khoảng 5 – 7% sau 5 năm sau can thiệp.

Theo thống kê, thời gian tái phát triển phổ biến nhất là từ 3 đến 12 tháng sau khi can thiệp mạch vành qua da.

2. Nguyên nhân gây tái cấu trúc sau khi nong mạch

2.1. Hẹp lại do hư hỏng thành tàu

Để thực hiện can thiệp mạch máu, các bác sĩ sẽ sử dụng một quả bóng phồng lên để mở rộng lòng động mạch. Sau đó, một hệ thống đặt stent được đưa vào vị trí thu hẹp, có nhiệm vụ giữ cho động mạch mở rộng không bị sụp đổ.

Do đó, nong mạch và đặt stent, cho dù hiện đại đến đâu, là một dạng chấn thương cho mô và bề mặt của mạch máu. Việc nén mảng bám trong quá trình giãn nở và đặt stent gần như sẽ tạo ra chấn thương cho thành mạch máu. Hành động này kích hoạt một loạt các phản ứng viêm, tạo hạt, sửa chữa tế bào và tăng sinh tế bào nội mô.

Các tế bào nội mô lót lòng động mạch vành sẽ tăng sinh và nhân lên tại vị trí chấn thương. Nếu sự gia tăng này không được kiểm soát, sự tắc nghẽn sẽ dẫn đến các biến chứng của bệnh restenosis trong stent.

2.2. Hẹp lại do xơ vữa động mạch

Bên cạnh tổn thương mô, xơ vữa động mạch tái phát cũng được coi là nguyên nhân gây tái phát sau khi nong mạch và đặt stent. Sự khác biệt rõ ràng nhất là thời gian nghỉ ngơi do xơ vữa động mạch thường chậm hơn, xuất hiện 1 năm sau khi can thiệp mạch vành.

2.3. Hẹp lại sau khi đặt stent mạch máu do huyết khối

Restenosis huyết khối là một sự tắc nghẽn đột ngột của stent, do sự hình thành cục máu đông. Đây là một vấn đề tương đối nghiêm trọng vì huyết khối sẽ chặn hoàn toàn động mạch vành sau khi đặt stent.

Thời gian khởi phát cục máu đông dao động từ vài ngày đến vài tháng sau khi can thiệp mạch vành, và việc sử dụng các thuốc kháng tiểu cầu đã được chứng minh là làm giảm đáng kể nguy cơ tái phát sau khi đặt stent huyết khối. Nghiên cứu đã chứng minh rằng bệnh nhân cần dùng nó suốt đời sau khi đặt stent để ngăn ngừa huyết khối

Bỏ hoặc dùng sai thuốc đôi khi có thể dẫn đến huyết khối stent muộn – cục máu đông xảy ra hơn 1 năm, nhưng vấn đề này gây tranh cãi và không có nghiên cứu dứt khoát. thây.

3. Các loại stent restenosis theo AHA 1999

3.1. Hẹp lại trong stent loại I: tại chỗ

Loại Ia: Phục hồi tại ngã ba khớp hoặc stent.

Loại Ib: Phục hồi ở rìa của stent.

Loại Ic: Hẹp lại trong thân của stent.

Loại Id: Hẹp lại tại nhiều địa điểm.

3.2. Hẹp lại ở stent loại II, III, IV: lan tỏa

Loại II: Hẹp lại trong stent khuếch tán.

Loại III: Hẹp lại do tăng sinh mô rộng rãi, không bị cản trở hoàn toàn.

Độ IV: Hẹp lại gây tắc nghẽn hoàn toàn động mạch vành.

4. Điều trị restenosis sau khi nong mạch

Các lựa chọn điều trị cho bệnh restenosis sau khi đặt stent động mạch vành bao gồm:

Thực hiện tái tưới máu, đặt một stent khác tại vị trí hẹp hoặc mở rộng chỉ bằng một quả bóng phủ thuốc.

Ghép bắc cầu động mạch vành là một lựa chọn khác cho bệnh nhân tái tạo trong stent, đặc biệt nếu tái tạo sau khi đặt stent thứ hai.

Bệnh nhân cần tuân thủ điều trị bằng thuốc sau khi đặt stent, đặc biệt là thuốc kháng tiểu cầu để ngăn ngừa huyết khối và kiểm soát lipid máu chống xơ vữa động mạch bằng statin.

Ngoài ra, cần cải thiện lối sống, tập thể dục và ăn uống lành mạnh bằng cách hạn chế chất béo, rượu, giữ trọng lượng cơ thể tiêu chuẩn, không hút thuốc và kiểm tra sức khỏe thường xuyên để phát hiện sớm. bất thường.