Nghiên cứu so sánh hóa trị trong phúc mạc hay hóa trị toàn thân?

Nghiên cứu so sánh hóa trị mới được xây dựng dựa trên nghiên cứu trước đây cho thấy khả năng sống sót được cải thiện đáng kể với hóa trị liệu phúc mạc so với hóa trị liệu toàn thân.

1. Mục đích nghiên cứu so sánh hóa trị trong phúc mạc (IP) và hóa trị toàn thân (IV)

Một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III GOG-252 của Tiến sĩ Walker và cộng sự (thuộc Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Oklahoma) đã được công bố trên Tạp chí Ung thư lâm sàng và được trình bày tại Hội nghị ASCO 2919 ở Chicago. , HOA KỲ. Nghiên cứu so sánh hai chế độ hóa trị liệu trong phúc mạc (IP) và toàn thân (IV) cho ung thư biểu mô buồng trứng. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sống không bệnh tiến triển (PFS) giữa các nhóm. Phác đồ với carboplatin IV và IP được dung nạp tốt hơn so với cisplatin (2 thuốc cùng nhóm bạch kim)

Mục đích: Để đánh giá hiệu quả của hai phác đồ hóa trị liệu trong phúc mạc (IP) so với hóa trị liệu toàn thân (IV) để xem liệu có sự khác biệt về tỷ lệ sống sót không tiến triển (PFS) ở phụ nữ bị ung thư hay không. biểu mô buồng trứng mới được chẩn đoán.

Hóa trị liệu toàn thân IV thường được đưa ra qua ống thông hoặc cổng, đôi khi với sự trợ giúp của máy bơm

2. Phương pháp nghiên cứu

Từ tháng 7 năm 2009 đến tháng 11 năm 2011, những bệnh nhân đủ điều kiện trải qua phẫu thuật triệt để được chỉ định ngẫu nhiên vào một trong ba nhánh sau đây để điều trị bổ trợ với thêm 6 chu kỳ hóa trị:

Nhánh 1: paclitaxel 80 mg/m2 tĩnh mạch hàng tuần cộng với carboplatin tĩnh mạch (AUC 6)/chu kỳ 3 tuần paclitaxel 135 mg/m2 ngày 1, cisplatin IP 75 mg/m2 ngày 2 và paclitaxel IP 60 mg/m2 ngày 8/3- chu kỳ tuần

Tất cả các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều được điều trị bằng bevacizumab 15mg/kg IV mỗi 3 tuần/từ chu kỳ 2 đến chu kỳ 22.

3. Kết quả nghiên cứu

Tổng cộng có 1.560 người tham gia và thời gian theo dõi là 84,8 tháng. Thời gian sống không bệnh tiến triển trung bình (PFS) là 24,9 tháng ở nhóm carboplatin IV, 27,4 tháng ở nhóm carboplatin IP và 26,2 tháng ở nhóm cisplatin IP. Phân tích phân nhóm trên 1.380 bệnh nhân giai đoạn II/III có tổn thương nhỏ < 1cm (sau phẫu thuật), có PFS trung vị là 26,9 (IV-carboplatin), 28,7 (IP-carboplatin) và 27,8 tháng (IP-cisplatin) và thời gian sống thêm trung bình (OS) cho những bệnh nhân này lần lượt là 35,9, 38,8 và 35,5 tháng.

Đối với nhóm hoàn toàn không có tổn thương sau phẫu thuật triệt để, thời gian sống sót trung bình (OS) cho hai nhánh đầu tiên là 98,8 tháng, 104,8 tháng và riêng nhánh thứ ba là không có. con số .

Thời gian sống còn toàn bộ trung bình (OS) cho tất cả các nghiên cứu đối với ba nhánh lần lượt là 75,5, 78,9 và 72,9 tháng.

Về tác dụng phụ:

Độc tính độ 3 phổ biến hơn ở nhóm IP cisplatin (17,7%) và nhóm IP carboplatin (17,2%) so với nhóm carboplatin IV (11,5%; P = 0,008). Buồn nôn và nôn độ 3 phổ biến hơn (P <0,005) ở nhóm IP cisplatin so với nhóm carboplatin IV và nhóm carboplatin IP (11,0% so với 5,1% và 4,7%). Tăng huyết áp độ 3 phổ biến hơn (P <0,005) ở nhóm cisplatin IP so với nhóm carboplatin IV và IP carboplatin (20,5% so với 11,9% và 14,3% tương ứng).

4. Kết luận nghiên cứu

Theo nghiên cứu, điều trị ung thư buồng trứng bằng hóa trị liệu IP là lựa chọn tốt nhất

So với nhóm tham chiếu carboplatin IV, tỷ lệ sống sót không bệnh (PFS) không tăng đáng kể với phác đồ IP khi kết hợp với bevacizumab. Nhóm dùng carboplatin được dung nạp tốt hơn nhóm dùng cisplatin tại chỗ (IP).

Theo nhà nghiên cứu, mặc dù lợi ích của hóa trị liệu qua màng bụng không rõ ràng trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên lớn này, nhưng liệu pháp IP vẫn có thể có lợi ở một số bệnh nhân.

Trong một bài báo về Ung thư, Tiến sĩ Sara Bouberhan của Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess ở Boston gợi ý rằng việc thêm bevacizumab hoặc thay đổi các chi tiết cụ thể của lịch trình dùng thuốc có thể giải thích cho việc điều trị thiếu hiệu quả. luật SHTT. Bác sĩ lưu ý rằng có những thử nghiệm đang diễn ra có thể mang lại sự rõ ràng hơn về hiệu quả của các phương pháp điều trị.

Các nghiên cứu như thế này cho thấy sự cần thiết của các chiến lược mới để cải thiện hơn nữa việc điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn cuối. Nghiên cứu tìm ra các loại thuốc chống ung thư mới như thuốc ức chế PARP và thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch sẽ là bước tiếp theo quan trọng giúp cải thiện kết quả cho những bệnh nhân không may mắc căn bệnh này.