Rối loạn tai trong là hiện tượng thiếu lưu lượng máu hoặc mạch máu bị tắc, dẫn đến lưu lượng máu đến tai trong không ổn định. Nguyên nhân của thiếu máu cục bộ hoặc tắc mạch máu có thể là do sự thay đổi áp suất và thể tích của endolymph mê cung và sự tích tụ của endolymph này thường không được biết. Thay vào đó, có một số yếu tố nguy cơ dẫn đến sự tích tụ nội mạc tử cung này như tiền sử gia đình mắc bệnh Meniere, rối loạn tự miễn, dị ứng,…
1. Rối loạn tai trong là gì?
Tai trong nằm trong khu vực petrous của xương thái dương. Bên trong xương saphenous có một mê cung xương, bao quanh mê cung màng. Mê cung xương bao gồm hệ thống tiền đình và ốc tai. Đặc biệt:
Hệ tiền đình: Đây là bộ phận có chức năng giữ thăng bằng và tư thế, bao gồm các kênh bán nguyệt, nang trứng và nan nan. Nang trứng và nang trứng chứa các tế bào cảm nhận chuyển động của đầu theo hướng lên xuống hoặc thẳng đứng. Ống hình bán nguyệt cảm nhận góc quay của đầu.
Ốc tai: Đây là bộ phận chịu trách nhiệm về thính giác, bên trong ốc tai chứa các tế bào perilymph và lông. Các sợi thần kinh từ các tế bào lông đi vào perilymph và được nhúng vào màng gelatin. Rung động âm thanh cũng được truyền từ ống tai, qua tai giữa và cửa sổ vào tai trong. Tại vị trí này, rung động sẽ làm cho perilymph di chuyển và tóc rung, sau đó chuyển đổi thành tín hiệu điện và gửi đến não.
Rối loạn tai trong, còn được gọi là rối loạn tuần hoàn tai trong hoặc rối loạn vận mạch tai trong, là hiện tượng thiếu máu hoặc mạch máu bị tắc, dẫn đến lưu lượng máu đến tai trong không ổn định. . Bởi vì các mạch máu có nhiệm vụ cung cấp oxy, chất lỏng cũng như năng lượng cho các bộ phận khác nhau của cơ thể con người để cơ thể có thể hoạt động bình thường. Tuy nhiên, các mạch máu ở tai trong tương tự như bất kỳ mạch máu nào khác trong cơ thể. Tai trong liên tục sử dụng năng lượng, vì vậy việc cung cấp máu cho tai là rất quan trọng, nhưng vì một số lý do, lưu lượng máu ở tai trong không ổn định, từ đó khiến mọi người bị rối loạn tai trong. .
Rối loạn tai trong ngăn cản các mạch máu cung cấp năng lượng cho các tế bào lông ở tai trong. Những tế bào lông này có nhiệm vụ gửi tín hiệu âm thanh đến não, vì vậy rối loạn tai trong sẽ khiến các tế bào lông không hoạt động hiệu quả, từ đó gây ù tai, mất thính lực và tổn thương tai. Chuyển động của màng nhĩ, theo thời gian có thể gây điếc hoàn toàn ở bệnh nhân.
2. Nguyên nhân gây rối loạn tai trong
Theo phân tích, rối loạn tai trong là hiện tượng thiếu máu hoặc mạch máu bị tắc, dẫn đến lưu lượng máu đến tai trong không ổn định. Nguyên nhân của thiếu máu cục bộ hoặc tắc mạch máu có thể là do sự thay đổi áp suất và thể tích của endolymph mê cung và sự tích tụ của endolymph này thường không được biết. Thay vào đó, có một số yếu tố nguy cơ dẫn đến sự tích tụ nội mạc này:
Có tiền sử gia đình mắc bệnh Meniere, rối loạn tự miễn;
Bệnh nhân bị dị ứng, chấn thương đầu hoặc tai;
Trong một số trường hợp rất hiếm, nếu bệnh nhân mắc bệnh giang mai, nó có thể là một yếu tố dẫn đến hội chứng rối loạn tai trong;
Ngoài ra, rối loạn tuần hoàn tai trong cũng có thể do một số yếu tố khác như dị vật ở tai trong, tai bị viêm hoặc nhiễm trùng, viêm mê cung, viêm dây thần kinh thính giác và huyết khối…
3. Dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn tai trong
Khi bị rối loạn vận mạch tai trong, người bệnh thường bị chóng mặt kéo dài từ 1 đến 6 giờ. Trong một vài trường hợp, chóng mặt có thể kéo dài đến 24 giờ, kèm theo buồn nôn, nôn và đổ mồ hôi. , tiêu chảy và loạng choạng. Ngoài ra, những người bị rối loạn tuần hoàn tai trong cũng có thể có các triệu chứng sau:
Ù tai: Các triệu chứng ù tai thường xuất hiện ở tai bị ảnh hưởng, triệu chứng này có thể liên tục hoặc kéo dài. Bệnh nhân cảm thấy một âm thanh ù ù như côn trùng hoặc âm thanh ầm ầm.
Mất thính lực: Triệu chứng này thường ảnh hưởng đến tần số thấp. Hầu hết bệnh nhân thường cảm thấy đầy và áp lực trong tai bị ảnh hưởng.
Trong giai đoạn đầu của rối loạn tai trong, các triệu chứng chuyển đổi giữa các đợt và thời gian giữa các cơn thường khiến các triệu chứng kéo dài hơn 1 năm. Tuy nhiên, nếu bệnh trở nên nặng hơn, các dấu hiệu mất thính lực vẫn tồn tại và dần trở nên tồi tệ hơn, trong khi ù tai vẫn không thay đổi.
4. Chẩn đoán hội chứng rối loạn tai trong
Thông thường, chẩn đoán rối loạn tuần hoàn tai trong dựa trên các triệu chứng lâm sàng. Khi một người có dấu hiệu mất thính lực, chóng mặt không liên tục, cảm giác no và ù tai là những triệu chứng điển hình của bệnh. Các triệu chứng của rối loạn tai trong thường tương tự như hội chứng đau nửa đầu tiền đình, viêm mê cung do virus hoặc viêm dây thần kinh tiền đình và đột quỵ. Do đó, để khẳng định chẩn đoán, bác sĩ sẽ kê toa các phương pháp xét nghiệm khác như:
Do thính lực đồ và MRI khi tiêm chất cản quang từ nội sọ. Phương pháp thính lực đồ sẽ hiển thị kết quả thu tần số thấp kém trong tai bị ảnh hưởng.
Thử nghiệm cố định Fukuda với đôi mắt nhắm nghiền: Thử nghiệm này thường được quy định để phân biệt với cuộc tấn công của meniere. Tuy nhiên, nếu là trường hợp lâu dài hoặc dai dẳng, giảm chức năng mê cung sẽ khiến bệnh nhân quay về phía tai bị ảnh hưởng.
Kiểm tra Halmagyi hoặc kiểm tra đẩy đầu: Đây được coi là một kỹ thuật được sử dụng để thể hiện các rối loạn mê cung đơn phương. Với xét nghiệm này, bệnh nhân sẽ nhìn thẳng vào mục tiêu ngay phía trước, sau đó y tá sẽ nhanh chóng xoay đầu bệnh nhân 15 đến 30 độ sang một bên và quan sát mắt bệnh nhân.
5. Điều trị hội chứng rối loạn tai trong
Bệnh Meniere thường có xu hướng tự giới hạn và nếu bệnh nhân đang ở giữa một rối loạn cấp tính, điều trị chủ yếu là để giảm bớt các triệu chứng. Những phương pháp đó bao gồm:
Sử dụng thuốc chống nôn kháng cholinergic để giảm thiểu các triệu chứng tiêu hóa. Trong một số trường hợp, thuốc kháng histamine như meclizine, cyclizine 50mg uống mỗi 6 giờ hoặc benzodiazepin có thể được sử dụng để làm dịu hệ thống tiền đình. Tuy nhiên, thuốc kháng histamine và benzodiazepin không có hiệu quả trong điều trị dự phòng.
Một đợt tiêm corticosteroid đường uống hoặc tiêm dexamethasone transtympanic trong trường hợp rối loạn tai trong cấp tính hoặc thuốc lợi tiểu như hydrochlorothiazide 25mg có thể ngăn ngừa và giảm các triệu chứng chóng mặt.
Thực hiện chế độ ăn ít muối (dưới 1,5g/ngày), tránh uống rượu và cà phê.
Ngoài ra, khi các phương pháp điều trị bảo tồn chức năng thất bại, phẫu thuật phá hủy sẽ được xem xét để điều trị. Gentamicin được tiêm qua màng nhĩ nhưng cần được theo dõi bằng thính lực đồ để theo dõi bệnh nhân khiếm thính. Tiêm Gentamicin có thể được lặp lại trong 4 tuần nếu bệnh nhân vẫn có triệu chứng chóng mặt nhưng không bị mất thính lực. .
Như một lưu ý phụ, phẫu thuật phá hủy chỉ được chỉ định để điều trị cho bệnh nhân bị các cơn cấp tính nặng không đáp ứng với các thủ tục xâm lấn tối thiểu. Ngoài việc phẫu thuật cắt dây thần kinh tiền đình để giảm chóng mặt và bảo tồn thính giác, phẫu thuật phá hủy mê cung chỉ nên được thực hiện nếu bệnh nhân bị điếc sâu.
Tuy nhiên, với hội chứng tai trong thường không có cách nào để ngăn chặn sự tiến triển tự nhiên của mất thính lực. Do đó, hầu hết bệnh nhân bị mất thính lực từ trung bình đến nặng ở tai bị ảnh hưởng trong vòng 10 – 15 năm.