Suy tim là tình trạng tim không thể bơm đủ máu để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Suy tim là con đường phổ biến cuối cùng của hầu hết các bệnh tim mạch. Bệnh nhân suy tim sẽ bị giảm khả năng hoạt động, giảm chất lượng cuộc sống, tùy thuộc vào mức độ, họ sẽ cần sự hỗ trợ khác nhau. Ngoài ra, bệnh nhân suy tim nặng sẽ phải đối mặt với nguy cơ tử vong cao do rối loạn nhịp tim và các đợt suy tim mất bù. Suy tim được chia thành hai loại: suy tim cấp tính và mãn tính. Bài viết này sẽ đối phó với suy tim mãn tính.
Chẩn đoán suy tim
Để chẩn đoán suy tim, bác sĩ sẽ lấy tiền sử bệnh cẩn thận, hỏi về tiền sử gia đình, khám sức khỏe, kết hợp các phương pháp xét nghiệm như:
Điện tâm đồ ECG: có thể phát hiện các buồng tim dày, rối loạn nhịp tim, khóa nhánh bó trái, nhồi máu sóng Q, thay đổi ST-T trong thiếu máu cục bộ cơ tim.
X-quang tim phổi: hình ảnh tim to, sung huyết phổi, tràn dịch màng phổi
Siêu âm tim qua lồng ngực: đánh giá chức năng tâm thất trái bình thường hoặc giảm, chuyển động tốt vùng thất trái, hở van tim, kích thước buồng, áp lực động mạch phổi, dịch màng ngoài tim, huyết khối buồng tim.
Điện tâm đồ Holter 24 giờ: tìm kiếm rối loạn nhịp tim
Chụp mạch vành: thường để tìm ra nguyên nhân nghi ngờ của bệnh động mạch vành, phân suất tống máu thất trái giảm
Động mạch vành MSCT: để tìm ra nguyên nhân nghi ngờ mắc bệnh động mạch vành, bất thường cấu trúc tim, bệnh màng ngoài tim.
MRI tim: khi nghĩ về việc nguyên nhân gây suy tim là viêm cơ tim hay bệnh cơ tim.
Xét nghiệm máu tổng quát (lượng đường trong máu, mỡ máu, men gan, chức năng thận, điện giải đồ, TSH) và NT-Pro BNP, giúp chẩn đoán nguyên nhân, tiên lượng và theo dõi điều trị.
Điều trị suy tim
Suy tim là một bệnh mãn tính đòi hỏi phải quản lý suốt đời. Tuy nhiên, với việc điều trị, các dấu hiệu và triệu chứng có thể được cải thiện, và đôi khi tim trở nên mạnh mẽ hơn và chức năng tim phục hồi. Phương pháp điều trị phù hợp có thể giúp mọi người có chất lượng cuộc sống tốt hơn, sống lâu hơn và giảm nguy cơ đột tử.
Trong hầu hết các trường hợp mắc bệnh này, các bác sĩ sẽ sử dụng kết hợp các loại thuốc hoặc thiết bị hỗ trợ.
Thuốc điều trị
Để điều trị suy tim, các bác sĩ sẽ kết hợp thuốc tùy theo từng triệu chứng, giai đoạn và nguyên nhân gây bệnh sẽ có phác đồ dùng thuốc khác nhau. Một số loại thuốc được sử dụng trong điều trị là:
Thuốc ức chế men chuyển: những loại thuốc này hoạt động tốt cho những người bị suy tim, bởi vì chúng giúp làm giãn mạch máu để giảm huyết áp, cải thiện lưu lượng máu và giảm khối lượng công việc trên tim. trong tất cả các giai đoạn của bệnh.
Thuốc chẹn thụ thể Angiotensin II: Nhóm thuốc này có thể được sử dụng thay thế cho những bệnh nhân không dung nạp với thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACE).
Thuốc chẹn beta: đây là nhóm thuốc giúp làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp, ngăn ngừa và điều trị rối loạn nhịp tim nhanh, cải thiện chức năng tim và ngăn ngừa đột tử.
Thuốc lợi tiểu: Thuốc này giúp bệnh nhân đi tiểu thường xuyên hơn, hạn chế sự tích tụ nước trong cơ thể, đặc biệt là trong phổi, giúp bệnh nhân dễ thở hơn.
Chất đối kháng aldosterone: Đây là những thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali, có tác dụng làm giảm xơ hóa cơ tim và kéo dài cuộc sống của bệnh nhân.
Thuốc kích thích: là thuốc tiêm tĩnh mạch được sử dụng ở những người bị suy tim nặng trong bệnh viện để cải thiện chức năng bơm của tim và duy trì huyết áp. Tuy nhiên, thuốc này không kéo dài cuộc sống của bệnh nhân,
Digoxin (Lanoxin): Thuốc này giúp tăng khả năng co bóp của cơ tim, đặc biệt được chỉ định ở những bệnh nhân suy tim bị rung nhĩ.
Phác đồ thuốc có thể được sử dụng kết hợp tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân, bên cạnh đó một số loại thuốc khác như nitrat có thể được sử dụng để làm giảm đau thắt ngực, statin để giảm cholesterol hoặc chất làm loãng máu để giúp ngăn ngừa cục máu đông. đông máu… có thể được sử dụng tùy thuộc vào tình trạng y tế.
Phẫu thuật
Trong một số trường hợp, các bác sĩ khuyên nên phẫu thuật để điều trị nguyên nhân gây suy tim như phẫu thuật van tim nếu suy tim là do bệnh van tim, phẫu thuật bắc cầu mạch vành nếu suy tim là do hẹp động mạch vành, phẫu thuật sửa chữa bệnh. bệnh tim bẩm sinh hoặc liệu pháp cắt bỏ rối loạn nhịp tim
Một số phương pháp điều trị đang được nghiên cứu và sử dụng ở một số người bao gồm cấy ghép bộ đồng bộ hóa thất trái (CRT), cấy máy khử rung tim tự động (ICD), thiết bị hỗ trợ tâm thất trái (LVAD), ghép tim và gần đây nhất là thay thế toàn bộ tim nhân tạo. Những kỹ thuật này chỉ được áp dụng trong các bệnh viện lớn bởi các bác sĩ có trình độ chuyên môn cao.
Máy khử rung tim tự động (ICD): được sử dụng cho bệnh nhân giảm phân suất tống máu < 35%, giúp ngăn ngừa đột tử do rối loạn nhịp thất. Khi tim bị rung thất hoặc nhịp tim nhanh thất, máy sẽ phát ra một dòng điện như điện giật để ngăn chặn rối loạn nhịp tim và đưa nhịp tim trở lại bình thường.
Liệu pháp tái đồng bộ tim (CRT): được sử dụng ở những bệnh nhân có phân suất tống máu giảm, với phức hợp QRS rộng trên điện tâm đồ. Chiếc máy này sẽ giúp hai tâm thất co bóp đồng bộ hơn, cải thiện chức năng tim và các triệu chứng suy tim của bệnh nhân.
Thiết bị hỗ trợ tâm thất (VAD): đây là những thiết bị hỗ trợ tuần hoàn cơ học hoạt động như một máy bơm cơ học cấy ghép giúp bơm máu từ các khoang dưới của tim (tâm thất) đến phần còn lại của tim. thân thể. VAD được cấy vào bụng hoặc ngực và gắn vào tim để giúp nó bơm máu đến phần còn lại của cơ thể.
Ghép tim: Trong trường hợp bệnh giai đoạn cuối, không đáp ứng với các biện pháp điều trị trên nên được đưa vào sổ đăng ký ghép tim. Ghép tim có thể cải thiện khả năng sống sót và chất lượng cuộc sống.
Bệnh nhân cần nhận thức được các dấu hiệu của bệnh xấu đi để kiểm tra ngay lập tức:
Tăng cân nhanh chóng;
Phù nề;
Khó thở;
Ngất, đánh trống ngực thần kinh;
Đau ngực hoặc nặng ở ngực;
Mệt mỏi hoặc khó thở trong các hoạt động tập thể dục hàng ngày.
Suy tim có nguy hiểm không?
Suy tim là một căn bệnh rất nguy hiểm và dẫn đến nhiều biến chứng có thể làm giảm chất lượng cuộc sống và tuổi thọ của con người.
Giảm chất lượng cuộc sống: bệnh nhân không thể làm việc hoặc thậm chí tự chăm sóc bản thân. Bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối cần người chăm sóc để hỗ trợ họ liên tục.
Rối loạn nhịp tim: Bệnh nhân dễ bị rung nhĩ hoặc rối loạn nhịp thất. Rung nhĩ làm cho tình trạng tồi tệ hơn bằng cách giảm 20% lượng máu được bơm bởi tim, ngoài ra còn làm tăng nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ vì cục máu đông đi từ tim đến não. Bệnh nhân suy tim nặng thường có ngoại tâm thất, nhịp tim nhanh thất hoặc rung tâm thất, có thể gây tử vong đột ngột nếu không có máy khử rung tim dự phòng.
Tử vong và đột tử: Suy tim nặng giai đoạn cuối không đáp ứng với điều trị y tế mà không có sự hỗ trợ của tim hoặc ghép tim sẽ dẫn đến tử vong. Đột tử cũng là một biến chứng có thể xảy ra ở những bệnh nhân có giai đoạn C và D, ngay cả khi các triệu chứng suy tim không quá nghiêm trọng.
Bệnh nhân cần nhận biết các dấu hiệu của bệnh xấu đi để kiểm tra ngay lập tức:
Tăng cân nhanh: tăng >= 1,5 kg/ngày hoặc >= 2,5 kg/tuần
Phù nề;
Khó thở;
Ngất, đánh trống ngực thần kinh;
Đau ngực hoặc nặng ở ngực;
Mệt mỏi hoặc khó thở trong các hoạt động tập thể dục hàng ngày.