Thời gian ủ bệnh của Nocardia là bao lâu?

Thời gian ủ bệnh của Nocardia thường kéo dài từ vài tháng đến vài năm. Nhiễm trùng tim là phổ biến ở những người có hệ thống miễn dịch yếu ảnh hưởng đến phổi, não và da.

Thời gian ủ bệnh của Nocardia là bao lâu?

Nocardia là một bệnh nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn Nocardia sống trong đất. Nó gây ra một rối loạn ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương (não và tủy sống), phổi hoặc da. Nhiễm trùng tim là một bệnh nghiêm trọng và có khả năng gây tử vong.

Có 4 loại bệnh gây bệnh Nocardia khác nhau: Tiểu hành tinh Nocardia; Nocardia Brasiliensis; Nocardia Farcinica; Nocardia Caviae. Đây đều là những vi khuẩn Gram dương kháng axit. Chúng có khả năng sống sót trong môi trường bên ngoài. Nocardia sống trong đất, đặc biệt là đất đồi núi.

Nocardia được truyền trên da thông qua các vết cắt, vết thương hở hoặc vết trầy xước xảy ra trong quá trình làm việc trong vườn, tiếp xúc với đất bẩn. Những người làm việc trên các công trường xây dựng và trang trại có nguy cơ phơi nhiễm với căn bệnh này cao hơn.

Bệnh đã được báo cáo xảy ra ở Ấn Độ; Soudan; Tiếng Somali; Senegal; Venezuela; Mexico; ít phổ biến hơn ở châu Âu; Hoa Kỳ, Indonesia; Nhật Bản, Úc. Tại Việt Nam, chưa có tài liệu về dịch tễ học của Nocardia.

Mặc dù là một dịch bệnh, nhưng không có bằng chứng cho thấy Nocardia đã gây ra các đợt bùng phát lớn hay nhỏ trong cộng đồng (bao gồm cả các tài liệu y tế trong nước và quốc tế). Tuy nhiên, tại các địa phương, nếu nocardia xảy ra, các nhà quản lý cũng cần được thông báo để có kế hoạch phòng ngừa tốt nhất.

Theo nghiên cứu, Nocardia là một căn bệnh thầm lặng. Từ khi chúng di chuyển từ môi trường đất vào cơ thể con người, chúng phải ủ từ vài tháng đến vài năm. Trong thời gian ủ bệnh này, chúng không gây ra bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng đáng chú ý nào. Vi khuẩn nocardia chỉ được phát hiện khi bệnh nhân được kiểm tra sức khỏe định kỳ hoặc xét nghiệm.

Trong giai đoạn toàn diện, Nocardia gây ra bệnh phổi và toàn thân. Bệnh phế quản phổi có sẵn ủng hộ sự xâm chiếm của vi khuẩn nhưng thường không gây bệnh, trừ khi bệnh nhân được điều trị bằng corticosteroid toàn thân hoặc thuốc ức chế miễn dịch.

Nocardia gây ra bệnh phổi, thường bắt đầu với các triệu chứng như: mệt mỏi, sốt, sụt cân, đổ mồ hôi đêm, ho, ho có đờm mủ. X-quang ngực cho thấy xâm nhập phổi và tràn dịch màng phổi.

Sau khi làm tổn thương phổi, bệnh lan đến ngực, xâm lấn xương sườn. Khi khuếch tán khắp cơ thể, Nocardia gây ra áp xe não và dưới da. Nhưng điều này chỉ được nhìn thấy ở những người có hệ thống miễn dịch yếu.

Nocardia có lây từ người sang người không?

Cho đến nay, không có bằng chứng y tế nào cho thấy Nocardia có thể lây truyền từ người sang người. Phương thức lây truyền bệnh chủ yếu là từ đất thông qua các vết trầy xước đến da, phổ biến nhất là thông qua các vết thương thủng. Một số nghiên cứu ở Mỹ cũng cho thấy việc truyền nocardia từ người sang người chưa được báo cáo đầy đủ.

Nocardia đặc biệt nguy hiểm đối với những người có hệ miễn dịch yếu đang được điều trị bệnh. Tần suất ước tính khác nhau trong dân số bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Ở những bệnh nhân được ghép thận, tỷ lệ này là khoảng 0-26%. Ở bệnh nhân ghép tủy xương, tỷ lệ mắc bệnh là khoảng 0,3% và ở những bệnh nhân lupus ban đỏ hệ thống (SLE), tỷ lệ mắc là 2,8%.

Tử vong có thể là kết quả của nhiễm trùng huyết, viêm phổi nặng hoặc áp xe não hoặc nhiễm trùng ở những người có bệnh nền. Tỷ lệ tử vong tăng lên ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng cấp tính và ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng phổ biến, liên quan đến 2 hoặc nhiều cơ quan khác bị nhiễm trùng. Đặc biệt, tỷ lệ tử vong tăng đột biến ở những bệnh nhân dùng corticosteroid hoặc thuốc chống khối u.

Nocardia là một bệnh liên quan đến phổi, vì vậy để chẩn đoán chính xác bệnh, bệnh nhân cần phân biệt nó với bệnh lao, lao da, actinomycosis và eumycotic mycetoma.

Để xác định chính xác bệnh, bác sĩ sẽ lấy các tổn thương đầy mủ, sinh thiết để xét nghiệm và phân tích. Phương pháp thử nghiệm: Gram vết bẩn, Ziehl – Neelson hoặc nuôi cấy trên môi trường của Sabouraud ở 37 độ C.

Hiện nay, bệnh Nocardia thường được điều trị bằng một số loại thuốc sau:

– Trimethoprim – Sulfamethoxazol 480 mg x 2 lần/ ngày trong 2-3 tháng, hoặc

– Diamino difenyl sulfone liều hàng ngày 100-200mg trong 2-3 tháng hoặc

– Ngoài ra, có thể sử dụng các loại kháng sinh như Ampicillin; Erythromycin; Minocycline; Amikacin.

Để ngăn ngừa bệnh lây lan rộng rãi ở người, các bác sĩ khuyến cáo: người dân không giẫm lên gai, miếng gỗ thối, không để trâu, bò, dê, cừu, phân ngựa dính vào vết trầy xước da.