Tổn thương cơ bản trong bệnh phổi được phát hiện trên X-quang

X quang ngực là một kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh được sử dụng để đánh giá tình trạng phổi của bệnh nhân, các thành phần của nó và các cấu trúc gần đó.

1. Tổn thương cơ bản trong bệnh phổi được phát hiện trên X-quang

X-quang là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh được sử dụng phổ biến nhất trong y học, giúp bác sĩ đánh giá và phát hiện các triệu chứng bất thường của phim X-quang ngực, từ đó giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định sáng suốt. chẩn đoán sơ bộ. Bài viết sẽ cung cấp thông tin về các tổn thương cơ bản của phổi được phát hiện trên X quang.

Dựa trên mức độ ngăn chặn tia X của tổn thương, tổn thương phổi được chia thành ba loại: mờ, sáng và kết hợp ánh sáng mờ.

2. Tổn thương phổi mờ

Tùy thuộc vào kích thước, độ mờ đục được chia thành 3 loại: độ mờ của trường phổi, độ mờ, độ mờ, độ mờ.

2.1 Làm mờ toàn bộ trường thải:

Phổ biến trong các bệnh sau:

Tràn dịch hoàn toàn ở một bên khoang màng phổi.

Nguyên nhân có thể là bệnh lao, ung thư phổi hoặc chấn thương…

Độ mờ đục rắn của toàn bộ phổi, đẩy các cơ quan xung quanh. Không gian liên sườn bị tổn thương được mở rộng, trung thất được đẩy về phía phổi khỏe mạnh,…

Dày lên của toàn bộ khoang màng phổi.

Thường là do di chứng của tràn dịch màng phổi được điều trị kém, tràn máu màng phổi do chấn thương,..

Độ mờ đồng nhất của toàn bộ phổi gây ra hiệu ứng kéo co rất mạnh. Kéo trung thất về phía bên bị thương, làm cho không gian liên sườn ở phía bị thương bị thu hẹp. Vôi hóa màng phổi có thể được nhìn thấy trên phim.

Tổng số sụp đổ của một phổi.

Do sự tắc nghẽn của phế quản chính. Các nguyên nhân phổ biến nhất là bệnh nhân ung thư phế quản trung tâm hoặc một cơ quan nước ngoài trong phế quản chính.

Một hình mờ xuất hiện trong toàn bộ phổi gây ra hiệu ứng giằng co. Tuy nhiên, mức độ co ngót thường nhẹ hơn nhiều so với chất kết dính.

2.2 Mây:

Dùng để chỉ các hình mờ có kích thước khoảng 3-10cm. Có thể chiếm một thùy hoặc thùy phổi. Tổn thương mây là phổ biến trong các bệnh sau đây:

Tràn dịch màng phổi: Mờ đục đồng nhất ở đáy phổi và ở góc costophrenic, ranh giới trên không rõ ràng, tạo thành đường cong Damoiseau. Tràn dịch màng phổi gây ra hiệu ứng nén tùy thuộc vào mức độ: đẩy trung thất sang phía đối diện, làm giãn không gian liên sườn,…

Viêm phổi thùy (viêm phổi do phế cầu khuẩn thường gặp): Thường gặp nhất ở thùy giữa bên phải của phổi. Ở giai đoạn điển hình của tổn thương, có một độ mờ đồng nhất ở nửa dưới của phổi phải, góc costophrenic bên phải sáng, đường viền trên rõ ràng và vết nứt nhỏ liên thùy có mặt. Trên phim nghiêng, các độ mờ có hình tam giác chiếm toàn bộ thùy giữa bên phải, thẳng hoặc lồi, và đỉnh biến thành hilum. Hai cạnh là hai rãnh interlobar.

Xúng phổi: Các độ mờ tương đối đồng nhất trong hình dạng của một tam giác lõm. Nếu một thùy hoặc đoạn sụp đổ, độ mờ là một vết nứt liên thùy. Thường gặp ở phế quản

Dày màng phổi: Hậu quả sau tràn dịch màng phổi. Độ mờ là đồng nhất hoặc tương đối đồng nhất, ranh giới thường rõ ràng. Gây co thắt các cơ quan liên quan (vòm họng, trung thất, không gian liên sườn, ..).

Khối u phổi: Thông thường mờ đục tròn, ranh giới có thể rõ ràng hoặc không rõ ràng, độ tương phản đồng nhất và nằm ở bất kỳ vị trí nào của phổi. Khối u phổi lành tính rất hiếm. Khoảng 98% khối u phổi là khối u phế quản, vì vậy hầu hết các khối u phổi là ác tính. Dựa trên vị trí của khối u, khối u phổi được chia thành hai loại khối u phổi trung tâm và khối u phổi ngoại biên. Khối u phổi trung tâm là khối u của phế quản lớn ở vùng rốn. Khối u phổi ngoại biên là khối u của phế quản nhỏ khác với hilum.

Ung thư phổi trung tâm còn được gọi là ung thư phế quản trung tâm. Kết quả chụp X quang là độ mờ đục ở vùng đồi núi, chồng lên rìa trung thất, có nhiều rìa gai hình tia nắng mặt trời, ranh giới không rõ ràng. Bởi vì khối u bắt nguồn từ phế quản chính, nó có thể gây xẹp phổi ở thùy hoặc phân đoạn tương ứng (xẹp phổi hoạt động). Cần chẩn đoán phân biệt với khối u trung thất.2.3 Các nốt sần mờ:

Đây là những hình mờ có kích thước 1-3cm. Các đốm mờ là phổ biến trong các bệnh sau:

Ung thư di căn đến phổi: Tròn, hoặc hình bầu dục, mờ đục, kích thước không đồng đều, với sự xuất hiện của bóng bay rải rác khắp hai trường phổi.

Tổn thương lao:

Bệnh lao xâm nhập: Độ mờ đục không đồng nhất thường ở đỉnh, vùng dưới đòn, ranh giới không rõ ràng, ở các giai đoạn khác nhau.

Bệnh lao: Một đốm mờ đơn độc ở ngoại vi phổi, thường tròn, với rìa nhẵn, ranh giới được xác định rõ, có thể bị vôi hóa.

Ung thư phế quản ngoại biên nằm ở ngoại vi của phổi. Bởi vì khối u ác tính của khối u phổi ngoại biên thường thấp, khối u dường như là một khối lành tính. Hình tròn hoặc hình bầu dục, các cạnh nhẵn, ranh giới thường được xác định rõ.

Bệnh lao phổi: Độ mờ đục không đồng nhất, ranh giới không rõ ràng. Tổn thương ở các giai đoạn phát triển khác nhau: xâm nhập, xơ hóa, vôi hóa, ..

2.4 Kê các nốt nhỏ mờ:

Đây là những hình mờ có kích thước từ 1 đến 10mm, thường thấy trong các bệnh sau:

Lao kê: Các mờ đục nhỏ, kích thước xấp xỉ 1mm, phân bố đều khắp hai trường phổi.

Di căn của ung thư kê: Các nốt mờ lớn và nhỏ không đều như trong bệnh lao kê, tập trung chủ yếu ở vùng rốn và đáy phổi.

3. Hình ảnh tươi sáng

Hình ảnh tràn khí màng phổi:

Hình ảnh ánh sáng thường ở ngoại vi và cao trong trường phổi, không có vân phổi, giới hạn ở nhu mô phổi là biên giới của màng phổi nội tạng. Nhu mô phổi được đẩy về phía hilum (xẹp phổi thụ động). Gây ra hiệu ứng đẩy tùy thuộc vào mức độ (đẩy trung thất đến phổi khỏe mạnh, giãn không gian liên sườn,…).

Kén không khí:

Hình dạng sáng thường là hình tròn hoặc hình bầu dục, tường mỏng, đường viền mịn, phân định ranh giới tốt. U nang không khí thường đơn độc trên một phổi, với kích thước khác nhau. Bản chất của kén không khí là mất các đường vân phổi. Tuy nhiên, vì màng X-quang là kết quả của sự chồng chất trước sau, chỉ có u nang không khí lớn chiếm toàn bộ độ dày trước sau của thành ngực là không có. Các u nang nhỏ hơn được chồng chéo bởi nhu mô phổi khỏe mạnh trước và sau đó, vì vậy các vân vẫn còn nhìn thấy được.

Hang:

Đó là một hình ảnh tươi sáng nằm trên một khu vực của phổi với các tổn thương bệnh lao xung quanh. Thành hang thường dày, đường viền không rõ ràng, xung quanh có nhiều tổn thương xâm nhập. Các hang động cổ thường có những bức tường mỏng, các cạnh nhẵn và ranh giới rõ ràng. Xung quanh có nhiều dải sợi, nốt sần bị vôi hóa. Do tổn thương lao cũ, thường có tác dụng kéo co do dày màng phổi.

4. Hình mờ – sự kết hợp ánh sáng

Áp xe phổi:

Chụp X-quang ngực cho thấy hình bầu dục tròn hoặc hình bầu dục được phân định rõ ràng, thường được phân lập trong áp-xe phổi với sự lan rộng trực tiếp hoặc nhiều ổ nhỏ trong trường hợp áp-xe phổi do tụ cầu khuẩn. Trong giai đoạn mủ, tạo thành một hang động với mức khí và chất lỏng. Đây là những khối nằm trong nhu mô phổi, với lớp vỏ dày và được phân định rõ ràng với các mô phổi khỏe mạnh. Hình ảnh ánh sáng ở trên cùng, các đường vân phổi bị mất. Hình mờ vững chắc ở dưới cùng. Ranh giới hình ảnh sáng và mờ là các mức ngang. Mô hình này nên được phân biệt với một cái kén không khí bị nhiễm bệnh. Thành kén thường mỏng và mức chất lỏng thấp. Thành của áp xe dày, và mức chất lỏng cao.

Tràn khí màng phổi, tràn dịch màng phổi:

Tổn thương nằm ở ngoại vi của phổi, vị trí của khoang màng phổi. Trong ánh sáng, sườn phổi trên bị mất, đẩy nhu mô vào vùng rốn. Hình mờ rắn phía dưới tạo ra một mức ngang.

Có thể thấy, với những bất thường xuất hiện khi chụp X-quang ngực, bác sĩ có thể phát hiện và chẩn đoán tổn thương tiềm ẩn trong bệnh phổi dựa trên các triệu chứng và kinh nghiệm của mình.

Tham khảo thêm tại https://nhathuocaz.com.vn hoặc https://nhathuochapu.vn https://ungthuphoi.com.vn