Ung thư đại trực tràng: Nguyên nhân, triệu chứng

Ung thư đại trực tràng, còn được gọi là ung thư ruột kết, ung thư trực tràng, là một loại ung thư xảy ra ở đại tràng (đoạn dài nhất của ruột già) hoặc trực tràng (vài inch cuối cùng của ruột già trước khi đến hậu môn). Vậy nguyên nhân gây bệnh cũng như dấu hiệu bệnh sớm là gì?

Ung thư đại trực tràng là gì?

Ung thư đại trực tràng là một bệnh phổ biến thứ hai trong ung thư đường tiêu hóa sau ung thư dạ dày. Nếu được phát hiện và phẫu thuật sớm khi ung thư chưa đến lớp Thanh Mac, tỷ lệ sống sót trên 5 năm đến 80% – 90%. Là loại ung thư gây tử vong thứ tư trên thế giới sau ung thư phổi, ung thư dạ dày và ung thư gan.

Nguyên nhân gây ung thư đại trực tràng

Polyp đại trực tràng

Polyp đại trực tràng là nguyên nhân gây ung thư. Theo Deinheka: Hơn 50% các trường hợp ung thư đại trực tràng phát sinh trên cơ sở polyp đại trực tràng.

Số lượng polyp càng cao, tỷ lệ ung thư càng cao.

Shinya và Wolf đã phân tích 5786 mẫu được tìm thấy: Nếu số lượng polyp là 1, tỷ lệ ung thư là 31,3% và con số là 3, tỷ lệ ung thư là 45,6%.

AI. KoZevnhikov đã điều trị 958 trường hợp polyp đại trực tràng và nhận xét:

Trong trường hợp polyp, tỷ lệ ác tính là 1/35. Trong trường hợp có nhiều polyp, tỷ lệ ác tính là 1/3. Sau 10 đến 15 năm, polyp phát triển thành ung thư.

Bệnh đại trực tràng mãn tính

Bệnh có thể phát sinh trên thiệt hại bình thường của các bệnh: kiết lỵ, amip, lao, giang mai, thương hàn và các bệnh khác của đại trực tràng. 

Bệnh nhân bị bệnh loét đại trực tràng, bệnh Crohn dễ bị ung thư đại trực tràng hơn bình thường. 

F. Saegesser và D.Waridel tìm thấy khoảng 3% – 4% bệnh nhân bị loét đại trực tràng với các biến chứng ung thư.

Chế độ ăn uống

Một chế độ ăn ít chất xơ, chất béo và protein động vật dễ bị ung thư đại trực tràng. Chế độ ăn này thay đổi vi khuẩn kỵ khí trong đại trực tràng, chuyển đổi axit mật và cholesterin thành chất gây ung thư.

Đồng thời, chế độ ăn ít chất xơ làm giảm khối lượng phân bón gây táo bón, chất gây ung thư tiếp xúc với niêm mạc ruột lâu hơn và tập trung hơn, tác động đến biểu mô của đại tràng. 

Yếu tố di truyền

Polyp đại trực tràng gia đình liên quan đến đột biến APC (Adenomatous polyposis) chiếm 1% ung thư đại trực tràng. 

Bệnh không có polyp di truyền. HNPCC còn được gọi là hội chứng Lynch liên quan đến gen P53, RAS và DCC. Chiếm 5% ung thư đại trực tràng.

Triệu chứng của bệnh

Đau bụng

Đau bụng là một trong những triệu chứng sớm nhất và có mặt ở 70-80% bệnh nhân ung thư ruột kết. 

Hoàn cảnh đau xảy ra không tuân theo bất kỳ quy tắc nào: nó có thể gây đau bất cứ lúc nào trong ngày, không liên quan đến bữa ăn, vị trí đau thường ở khu vực bị ung thư. Cơn đau có thể kéo dài hoặc ngắn, từ vài phút đến vài giờ. Cường độ của cơn đau lúc đầu thấp, sau đó đau nhiều hơn sau đó. 

Ung thư ở đại tràng phải đến muộn thường có triệu chứng bán tắc nghẽn: bệnh nhân bị đau bụng liên tục, đôi khi bị đầy bụng, sau khi đi tiêu, cơn đau đã biến mất (hội chứng Koenig). 

Ung thư ở đại tràng trái thường gây đau dữ dội khi có sự hiện diện của tắc nghẽn đường ruột. 

Rối loạn tiêu hóa

Thường có mặt ở 60% bệnh nhân ung thư ruột kết, có biểu hiện táo bón xen kẽ với nhu động ruột lỏng lẻo. 

Táo bón phổ biến hơn ở ung thư đại tràng trái, táo bón kéo dài khiến bệnh nhân khó chịu, đau đầu, chán ăn, ảnh hưởng đến sức khỏe. Sử dụng thuốc nhuận tràng, bệnh nhân có thể đi tiêu trở lại, nhưng sau đó táo bón vẫn tiếp tục.

Táo bón là do ung thư thu hẹp lòng ruột, cản trở dòng chảy của phân, gây ứ đọng phân. Hiện tượng ứ đọng phân làm tăng quá trình tái tạo và lên men, tạo ra nhiều khí hơn, gây trướng bụng và cũng làm tăng tiết chất nhầy trong ruột, những chất nhầy này sẽ khiến bệnh nhân đi tiêu lỏng lẻo với phân hỗn hợp và chất nhầy. Đôi khi là máu. 

Khi khối u phát triển, nó thu hẹp lumen của đại tràng. Bệnh nhân đi ngoài phân. Phân nhỏ và phẳng. 

Đi ngoài phân có máu

Bệnh nhân đi tiêu thường có máu do chảy máu tại vị trí ung thư.

Chảy máu ở đại tràng phải thường có màu đỏ sẫm, trong khi chảy máu ở đại tràng trái và trực tràng có màu đỏ tươi hơn. Phân có máu thường chứa ít chất nhầy từ niêm mạc ruột.

Hiện tượng chảy máu thường rỉ ra, từng chút một, vì vậy lúc đầu nó không ảnh hưởng đến sức khỏe của bệnh nhân. Sau đó, do chảy máu kéo dài, bệnh nhân bị thiếu máu. 

Triệu chứng toàn thân

Giảm cân: có thể giảm cân từ từ để bệnh nhân không chú ý, nhưng đôi khi cũng giảm cân nhanh chóng (5kg trong 1 tháng), kèm theo các triệu chứng chán ăn, mệt mỏi.

Thiếu máu: Đặc điểm của thiếu máu trong ung thư ruột kết là nó không cho thấy mất máu rõ ràng, vì vậy rất khó phát hiện. 

Sốt: Khoảng 16%-18% bệnh nhân ung thư ruột kết bị sốt là triệu chứng duy nhất. 

Khối u

Được tìm thấy ở 60% bệnh nhân ung thư ruột kết. Khi khối u phát triển, nó có thể sờ thấy khi kiểm tra. Khi một khối u của đại tràng bị sờ nắn, nó thường là một bệnh giai đoạn cuối.