Virus nào gây ra bệnh bại liệt?

Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm virus cấp tính lây truyền qua đường tiêu hóa. Virus bại liệt là tác nhân gây bệnh bại liệt. Bệnh có thể lây truyền thành dịch nếu không được điều trị và kiểm soát đúng cách.

1. Tác nhân gây bệnh bại liệt

Virus bại liệt là nguyên nhân chính gây ra bệnh bại liệt ở người. Virus nào có 3 loại:

Loại I: Đóng một vai trò quan trọng trong việc gây bệnh (90%) được gọi là Brunhilde

Loại II : được gọi là Lansing

Loại III: tên Leon

Vi khuẩn này được xem là hình cầu, không vỏ, có khả năng sống sót trong môi trường bên ngoài của virus. Virus bại liệt gây bại liệt dai dẳng ở môi trường bên ngoài, chúng có thể sống vài tháng ở nhiệt độ 0-4 độ. Ở nhiệt độ phòng trong nước, virus bại liệt có thể sống trong 2 tuần và cũng có thể chịu được khô. Ở nhiệt độ 56 độ, sau 30 phút virus này sẽ chết.

2. Nguồn lây nhiễm virus bại liệt

Con người là ổ chứa duy nhất của virus bại liệt, đặc biệt là trẻ em. Virus lây truyền chủ yếu qua đường phân-miệng. Người mang virus bại liệt bài tiết virus bại liệt qua phân, làm ô nhiễm nguồn nước, thực phẩm, lây lan virus cho người khác; Nó cũng đôi khi được truyền qua hầu họng, cổ họng và không qua côn trùng.

Khi nhiễm virus bại liệt, bệnh nhân sẽ có thời gian ủ bệnh từ 7-14 ngày đối với trường hợp có dấu hiệu liệt thân. Tùy từng trường hợp, thời gian ủ bệnh có thể dao động từ 3 đến 35 ngày. Tiếp theo là một giai đoạn lây truyền với thời gian không xác định, có thể kéo dài miễn là virus vẫn còn trong cơ thể và được loại bỏ.

Virus sau khi vào cơ thể có mặt trong dịch tiết hầu họng sau 36 giờ, trong phân sau 72 giờ. Trong phân, virus bại liệt có thể tồn tại đến 3-6 tuần hoặc lâu hơn. 7-10 ngày là thời điểm bệnh có thể lây truyền trước khi các triệu chứng lâm sàng xuất hiện.

3. Triệu chứng lâm sàng của bệnh bại liệt

Đối với bệnh nhân nhẹ, có dấu hiệu sốt trong 24-48 giờ trước khi tiến triển thành tình trạng nặng. Bệnh nhân có biểu hiện đau đầu, chán ăn, nôn mửa, nghẹt mũi, đầu, đau họng, rối loạn tiêu hóa.

Bệnh bại liệt nhẹ là không phổ biến, chỉ xảy ra ở một phần ba trẻ em và một số ít người lớn được chẩn đoán. Đây được gọi là hội chứng bại liệt sớm, sau các biểu hiện lâm sàng, bệnh nhân có dấu hiệu hồi phục.

1-3 ngày sau khi khởi phát bệnh nhẹ ở trên, viêm bại liệt nặng xuất hiện với các giai đoạn điển hình:

3.1 Thời kỳ tiền bại liệt

Bệnh nhân bị sốt, nhức đầu, buồn nôn, nôn mửa và có dấu hiệu kích thích vừa phải của màng não gây đau và cứng ở cổ và lưng, cũng có thể ở tứ chi. Một số ít bệnh chỉ phát triển đến mức này, mà không biến thành tê liệt được gọi là bại liệt không liệt.

3.2 Giai đoạn tê liệt

1-5 ngày sau khi khởi phát bệnh nặng, bệnh nhân bị liệt mềm ở các nhóm cơ cụ thể. Tình trạng được liệt kê phát triển trong 3 ngày tiếp theo với thang đo phụ thuộc vào vị trí và tình trạng của các tổn thương trong hệ thống thần kinh trung ương. Cơ bắp có thể trở lại hoạt động và cải thiện sau 4-6 tuần, cải thiện hoàn toàn trong khoảng 6 tháng.

4. Phòng chống virus bại liệt

Bên cạnh đó, các biện pháp phòng bệnh như giữ vệ sinh cá nhân, nguồn nước, thực phẩm trong ăn uống…, chủ động phòng ngừa bằng vaccine được đánh giá mang lại hiệu quả phòng ngừa cao.

Vắc-xin bại liệt bao gồm:

4.1 Vắc-xin sống giảm độc lực (OPV: Vắc-xin bại liệt đường uống)

Một loại vắc-xin sống giảm độc lực, còn được gọi là vắc-xin Sabin độc hại, được sản xuất từ các chủng vi-rút bại liệt hoang dã. Đây là một loại vắc-xin uống. Ngoài ra, vắc-xin này gây ra phản ứng miễn dịch đường ruột (IgA) và dịch thể (IgG). Vắc-xin này hiện đang được tiêm cho trẻ em 2, 3 và 4 tháng tuổi trong Chương trình tiêm chủng mở rộng.

4.2 Vắc-xin bại liệt bất hoạt (IPV: Vắc-xin bại liệt bất hoạt)

Vắc-xin bất hoạt, còn được gọi là vắc-xin Salk, tạo ra miễn dịch dịch thể (IgG) ngăn chặn virus xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương. Miễn dịch tại chỗ (IgA) chỉ được tạo ra ở hầu họng, vì vậy nó không ngăn chặn virus hoang dã xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hóa. Vắc xin bất hoạt được tiêm dưới dạng 1 liều cho trẻ dưới 1 tuổi, thay thế dần vắc xin OPV trong chương trình tiêm chủng mở rộng.