Xạ trị ung thư gan thông tin bạn cần biết

Xạ trị ung thư gan là một phương pháp điều trị ung thư gan dưới ảnh hưởng của bức xạ ion hóa và sử dụng tia X năng lượng cao để nhắm vào các tế bào ung thư gan.

Ung thư gan nguy hiểm như thế nào?

Chỉ những bệnh nhân mắc bệnh giai đoạn đầu, chẳng hạn như khối u đơn độc không có sự xâm lấn mạch máu hoặc không có hạch bạch huyết hoặc di căn xa, mới có thể ưu tiên cắt bỏ và điều trị. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân đã cắt bỏ, tỷ lệ sống sót cũng rất thấp, trung bình 5 năm là 25% – 35%.

Gần 70% bệnh nhân không có chỉ định cắt gan. Tỷ lệ sống trung bình thường khá thấp ở nhóm không thể hoạt động, dao động từ 2-9 tháng.

Các lựa chọn điều trị ung thư gan tiến triển không phải là giải pháp cho các liệu pháp phẫu thuật sẽ bao gồm liệu pháp toàn thân, liệu pháp động mạch và xạ trị.

Trước đây, xạ trị gan thường có vai trò hạn chế trong điều trị ung thư gan do lo ngại về nguy cơ mắc bệnh gan do bức xạ (RILD).

Trước khi phát triển xạ trị phù hợp với mô hiện đại, xạ trị cho gan thường được yêu cầu điều trị toàn bộ gan do lo ngại về chuyển động của cơ quan và khó nhắm mục tiêu chính xác. Điều trị toàn bộ gan có liên quan đến tăng nguy cơ mắc bệnh gan do bức xạ (RILD), ngay cả ở liều tương đối thấp.

Nguy cơ phát triển RILD thay đổi dựa trên chức năng gan, với nguy cơ gia tăng ở những bệnh nhân bị suy giảm chức năng gan. Bệnh nhân xạ trị gan cho ung thư gan nguyên phát đã được tìm thấy có nguy cơ mắc RILD cao hơn khi so sánh với những bệnh nhân nhận được cùng một liều xạ trị di căn gan. Trong số các bệnh nhân xơ gan bị xơ gan độ B, nguy cơ mắc RILD cũng tăng lên so với bệnh nhân xơ gan độ A. Mặc dù nhiều bệnh nhân đã hồi phục từ RILD với sự chăm sóc hỗ trợ, một số vẫn bị tổn thương gan dai dẳng.

Với nguy cơ RILD dẫn đến không có khả năng cung cấp xạ trị đầy đủ cho khối u, phương pháp xạ trị gan chiếm ưu thế trước đây bị giới hạn ở mức liều thấp để điều trị giảm nhẹ. Tuy nhiên, với sự phát triển của các kỹ thuật xạ trị hiện đại, xạ trị gan hiện đã nổi lên như một phương thức điều trị hấp dẫn và hiệu quả cho ung thư gan.

Đau dạ dày

Ung thư gan nếu để đến giai đoạn cuối thì sẽ rất khó để điều trị

Sự ra đời của các kỹ thuật xạ trị hiện đại

Trong 10 năm qua, việc phát triển các kỹ thuật lập kế hoạch và cung cấp liều bức xạ phù hợp với mô mục tiêu đã cho phép không chỉ tăng liều xạ trị, mà còn đo chính xác liều bức xạ được cung cấp cho cả khối u và khối u. Các cấu trúc bình thường giới hạn liều lượng xung quanh. Những dữ liệu này cho phép bác sĩ điều trị hiểu rõ hơn về các tương tác độc tính liều.

Với sự phát triển của xạ trị phù hợp với mô, cũng có thể cung cấp liều xạ trị khối u ngay cả đối với những bệnh nhân không phải là ứng cử viên cho các phương pháp điều trị chữa bệnh do nguy cơ tiềm ẩn của chức năng gan.

Xạ trị điều chế cường độ (IMRT) và xạ trị định vị cơ thể (SBRT)

Sự phát triển của các công nghệ xạ trị kỹ thuật cao, chẳng hạn như xạ trị điều chế cường độ (IMRT) và xạ trị vị trí cơ thể (SBRT) cho phép tăng thêm liều bức xạ.

Đây là những hình thức xạ trị có độ chính xác cao sử dụng nhiều chùm tia để cung cấp liều cao đến mô mục tiêu với liều giảm nhanh bên ngoài mô mục tiêu, do đó giảm thiểu liều nhận được từ các mô bình thường liền kề.

Xạ trị IMRT thường được đưa ra theo lịch trình liều thông thường hoặc giảm. Ngược lại, xạ trị SBRT được cung cấp trên một số phân số, trái ngược với các phương pháp điều trị hàng ngày thông thường trong vài tuần.

Ngoài các phương pháp xạ trị truyền thống, gây chết tế bào do tổn thương DNA vật liệu di truyền, SBRT cũng được cho là có tác dụng gây khối u, có thể do tổn thương mạch máu. Với liều cao được cung cấp thông qua IMRT và SBRT, khi điều trị, các bác sĩ lâm sàng cần xác định khối u chính xác, quản lý chuyển động khối u và hệ thống phân phối liều điều trị tiên tiến để đảm bảo điều trị an toàn và hiệu quả.

Nhắm mục tiêu chính xác là điều cần thiết để đảm bảo cung cấp liều tối đa cho khối u trong khi giảm thiểu tác động liều trên các cấu trúc bình thường liền kề. Do đó, CT mô phỏng đa pha và / hoặc MRI tại thời điểm lập kế hoạch điều trị là điều cần thiết để xác định chính xác mô mục tiêu. Xác định mô mục tiêu đặc biệt khác nhau ở những bệnh nhân bị hemangiomas hoặc nhiều tổn thương xâm nhập hơn. Các mô phỏng dựa trên hình ảnh cộng hưởng từ sẽ đặc biệt hữu ích trong việc giúp các bác sĩ lâm sàng xác định các mô mục tiêu ở những bệnh nhân có tổn thương xâm nhập nhiều hơn trên CT scan.

Bất động của bệnh nhân là rất quan trọng để đảm bảo rằng bệnh nhân không ở vị trí sai trong quá trình xạ trị, và là cơ sở để lập kế hoạch điều trị và xác định liều. Chuyển động mô và cơ quan mục tiêu cũng phải được đánh giá tại thời điểm lập kế hoạch điều trị. Quét CT mô phỏng bốn chiều (4D), với các bản chụp CT riêng lẻ thu được trong suốt chu kỳ hô hấp, tạo điều kiện xác định mục tiêu chính xác. Không nên sử dụng CT scan khi bệnh nhân thở tự do, vì điều này có thể dẫn đến các khu vực khối u bị bỏ lỡ hoặc quá liều bức xạ không cần thiết ảnh hưởng đến nhu mô gan khỏe mạnh. Đối với bệnh nhân có chuyển động khối u đáng kể, các thiết bị nén bụng có thể được sử dụng để giảm chuyển động cơ quan và mô mục tiêu.

Mục đích của xạ trị ung thư gan

Xạ trị ung thư gan sẽ phá hủy các tế bào ung thư gan, chống lại sự phát triển của các tế bào ung thư gan mới và tiêu diệt các tế bào ung thư gan cũ.

Xạ trị có thể chữa khỏi, giảm và kiểm soát ung thư gan. Trong trường hợp bệnh nhân có khối u lớn, xạ trị giúp thu nhỏ khối u, ngoài ra, sau phẫu thuật, xạ trị giúp loại bỏ hoàn toàn các tế bào ung thư còn lại, loại bỏ các triệu chứng chảy máu, tắc nghẽn nội tạng. tạng.

xạ trị ung thư gan

Phương pháp điều trị ung thư gan: Xạ trị

Các loại xạ trị ung thư gan

Bác sĩ có thể kê toa xạ trị từ bên ngoài, bên trong hoặc toàn thân

Xạ trị bên ngoài: sử dụng máy để hướng các chùm bức xạ trực tiếp đến khối u

Xạ trị nội bộ: bức xạ được đưa ra bên trong cơ thể bằng cách cấy bức xạ vào hoặc tiếp giáp với khối u ung thư gan.

Xạ trị toàn thân: bệnh nhân sử dụng thuốc phóng xạ dưới dạng nuốt hoặc tiêm để điều hướng đến các tế bào ung thư gan.

Khi nào chỉ định xạ trị ung thư gan?

Thông thường các bác sĩ sẽ tiến hành xạ trị ung thư gan ở giai đoạn đầu, giai đoạn 2 và giai đoạn 3. Ở giai đoạn này, xạ trị có thể chữa khỏi ung thư.

Khi ung thư ở giai đoạn 3 và giai đoạn muộn, xạ trị được sử dụng để giảm và kiểm soát bệnh.

Vai trò của xạ trị IMRT và SBRT trong điều trị ung thư gan

Ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) là chẩn đoán ung thư phổ biến thứ sáu nhưng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thứ hai trên toàn thế giới. Với sự phát triển của các kỹ thuật xạ trị hiện đại, xạ trị gan hiện đã nổi lên như một phương thức điều trị hấp dẫn và hiệu quả cho căn bệnh này.

Kết quả xạ trị gan bằng kỹ thuật xạ trị hiện đại

Nhiều thử nghiệm đơn lẻ và loạt tiềm năng đã chứng minh kết quả ấn tượng với xạ trị gan, với tỷ lệ sống sót 1 năm dao động từ 50-100% và kiểm soát khối u cục bộ từ 64-100%. Những kết quả này đặc biệt đáng khích lệ vì nhiều trường hợp bao gồm bệnh nhân giai đoạn tiến triển, bệnh nhân xơ gan tiềm ẩn và bệnh nhân đã thất bại trong các liệu pháp trước đó.

Xạ-trị-ung-thư-gan có tốt không
Xạ-trị-ung-thư-gan có tốt không

Xạ trị đặc biệt hiệu quả trong ung thư gan HCC tiến triển. Các kỹ thuật loại bỏ khối u như sóng vô tuyến hoặc lò vi sóng có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị triệt để cho các khối u nhỏ và giảm kích thước các tổn thương lớn hơn.

Các liệu pháp định hướng động mạch, bao gồm thuyên tắc hóa học (TACE), cung cấp kết quả giảm nhẹ và cải thiện cho bệnh nhân bị HCC vượt xa sự chăm sóc hỗ trợ nhưng có thể kiểm soát và chữa khỏi. Tại chỗ vẫn còn nghèo. Do đó, xạ trị chính đang ngày càng được sử dụng như một phương pháp điều trị cứu sống khi liệu pháp động mạch thất bại.

Ở những bệnh nhân bị HCC giai đoạn đầu, xạ trị gan đặc biệt ấn tượng. Hai nghiên cứu từ Nhật Bản với khối u 0,8 – 5 cm được điều trị đến 30 đến 40 Gy trong 5 phân số báo cáo tỷ lệ sống sót và kiểm soát 99% đến 100% 1 năm. Khối u tại chỗ sau 1 năm từ 95% đến 100%. So sánh hồi cứu tổng số so với xạ trị ở 26 bệnh nhân bị HCC tìm thấy tỷ lệ sống sót 3 năm tương tự (69,2% so với 57,1%, P = 0, 049)

Những kết quả này rất quan trọng vì một số bệnh nhân có khối u nhỏ hơn không thể hồi phục tối ưu, do vị trí khối u. Ví dụ, sự gần gũi của tổn thương với các mạch máu có thể làm giảm hiệu quả của việc cắt bỏ này vì các mạch có thể cho phép đối lưu nhiệt từ tổn thương. Các khối u nằm trong vòm gan hoặc tiếp giáp với hệ thống tĩnh mạch cửa của gan cũng là mục tiêu đầy thách thức cho phẫu thuật. Đối với những bệnh nhân này, xạ trị gan đại diện cho một phương thức điều trị an toàn và hiệu quả.

Liều lượng tối ưu và phân số cho xạ trị gan

Liều tối ưu trong xạ trị gan vẫn là một chủ đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm. Loạt nghiên cứu hồi cứu đã báo cáo kết quả được cải thiện với liều tăng, đặc biệt là ở những bệnh nhân có khối u lớn hơn.

Mặc dù kiểm soát được cải thiện với liều bức xạ lớn hơn, đặc biệt là ở các tổn thương lớn, tổng liều xạ trị nhỏ hơn có thể là đủ, đặc biệt là ở những bệnh nhân có khối u nguyên phát nhỏ hoặc những người bị xơ gan loại B. Điều này đặc biệt quan trọng vì nhiều bệnh nhân ung thư gan đã bị tổn hại chức năng gan mật và do đó có thể được hưởng lợi từ việc giảm xạ trị liều và tăng cường bảo vệ mô gan bình thường. thường.

Tác dụng phụ của xạ trị ung thư gan

Giống như hóa trị ung thư gan, xạ trị ung thư gan có nhiều tác dụng phụ và khác nhau đối với mỗi bệnh nhân, trong đó mệt mỏi là một tác dụng phụ phổ biến, ngoài các tác dụng phụ cấp tính. Giống như một cơn đau rát xung quanh khu vực bức xạ.

Xạ trị ung thư gan sử dụng màng để bảo vệ các cơ quan khỏe mạnh trong cơ thể, nhưng các tế bào khác vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi bức xạ, dẫn đến các tác dụng phụ phổ biến như:

Buồn nôn, nôn, chán ăn

Mệt mỏi sau 1-2 tuần sau khi xạ trị

Da chiếu xạ nhạy cảm và đổi màu

Có thể dẫn đến tiêu chảy

Các biện pháp giảm tác dụng phụ sau xạ trị ung thư gan

Với các tác dụng phụ khác nhau của xạ trị ung thư gan, sẽ có các biện pháp điều trị khác nhau:

Mệt

Không có phương pháp điều trị duy nhất cho triệu chứng này tuy nhiên nếu mệt mỏi là do thiếu máu, truyền máu có thể được đưa ra để làm cho bệnh nhân thoải mái hơn, hoặc bệnh nhân cũng có thể sử dụng thuốc kích thích. Cơ thể tạo ra nhiều tế bào hồng cầu hơn

Sử dụng thực phẩm giàu vitamin, chất dinh dưỡng, nâng cao sức đề kháng…

Thực hiện các bài tập nhẹ với phần còn lại để giúp giảm mệt mỏi hiệu quả

Tổn thương da

Tránh sử dụng nước hoa, chất khử mùi, ma túy, nước hoa có chứa cồn để tránh kích ứng da, tránh ánh sáng mặt trời

Làm dịu làn da ẩm ướt bằng vitamin E, lô hội…

Đau họng

Đánh răng đúng cách, giữ cho khoang miệng của bạn sạch sẽ

Có thể sử dụng thuốc gây tê cục bộ, giảm đau nếu miệng đau, có thể sử dụng ống đặt trực tiếp vào dạ dày nếu cần thiết

Cần kiểm tra nha khoa trước khi xạ trị

Tiêu hóa rất khó

Tác dụng phụ của nôn mửa và buồn nôn có thể được điều trị bằng thuốc. Nếu nôn nhiều, bệnh nhân cần được truyền dịch và chất điện giải để tránh mất nước.

Tiêu chảy nên sử dụng thực phẩm có nhiều chất xơ hoặc sử dụng thuốc

Buồn nôn thường xảy ra ở những bệnh nhân được xạ trị ung thư gan

sdc

Rối loạn chức năng tình dục nữ

Giãn âm đạo có thể được sử dụng để ngăn chặn điều này bằng cách sử dụng một chất giãn nở âm đạo. Thiết bị này là một thanh nhựa hoặc cao su hoặc ống kéo dài âm đạo.

Rối loạn cương dương nam

Nếu bệnh nhân gặp vấn đề về cương dương và giảm ham muốn tình dục sau khi xạ trị ung thư gan, bác sĩ có thể tiến hành xét nghiệm máu để kiểm tra nồng độ testosterone để xem liệu có cần bổ sung testosterone hay không.