Hóa trị bổ trợ trong điều trị ung thư dạ dày

Hiệu quả của hóa trị bổ trợ trong điều trị tận gốc ở bệnh nhân ung thư dạ dày ngày càng rõ ràng, mặc dù chưa có sự thống nhất về phương pháp tốt nhất nhưng ở nhiều nơi trên thế giới. Trên thế giới, hóa trị bổ trợ là chiến lược điều trị ưu tiên.

1. Hiệu quả hóa trị bổ trợ trong điều trị ung thư dạ dày

Ung thư dạ dày là một trong những bệnh ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Tại Việt Nam, theo Globocan 2016, ung thư dạ dày đứng thứ 3 ở cả hai giới sau ung thư phổi và ung thư gan với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 23,7/100.000 dân. Trên thế giới, tỷ lệ mắc ung thư dạ dày đã giảm từ những năm 1930 nhưng nó vẫn là nguyên nhân chính gây tử vong do ung thư ở Mỹ. Tỷ lệ tử vong cao có liên quan đến giai đoạn bệnh tiến triển tại thời điểm chẩn đoán. Ở phương Tây, tỷ lệ sống sót sau 5 năm đối với ung thư dạ dày giai đoạn I được phẫu thuật cắt bỏ là khoảng 70 đến 75%, trong khi tỷ lệ này giảm xuống dưới 35% ở nhóm giai đoạn I. II trở lên. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều trị bổ trợ (sau phẫu thuật) và tân bổ trợ (trước phẫu thuật) đã cho thấy kết quả cải thiện.

Hiệu quả của hóa trị bổ trợ sau cắt dạ dày tận gốc ở bệnh nhân ung thư dạ dày ngày càng rõ ràng, mặc dù chưa có sự thống nhất về phương pháp tốt nhất nhưng ở nhiều nơi trên thế giới. Trên thế giới, hóa trị bổ trợ là chiến lược điều trị ưu tiên. Mặt khác, một thử nghiệm lớn ở Mỹ (INT0116) cho thấy lợi ích đáng kể của hóa xạ trị bổ trợ.

Bài viết này sẽ cung cấp cho bạn đọc kết quả của một số nghiên cứu về phác đồ bổ trợ, hóa trị hoặc xạ trị ung thư dạ dày giai đoạn sớm sau phẫu thuật triệt căn.

Hiệu quả hóa trị bổ trợ sau cắt dạ dày tận gốc ở bệnh nhân ung thư dạ dày ngày càng rõ

2. Hóa trị bổ trợ và xạ trị trong điều trị ung thư dạ dày

Vai trò của xạ trị bổ trợ bắt nguồn từ quan sát cho thấy hơn 80% bệnh nhân tử vong do ung thư dạ dày tái phát. Mặc dù có dữ liệu cho thấy lợi ích của xạ trị sau phẫu thuật và trong phẫu thuật ở bệnh nhân ung thư dạ dày có thể phẫu thuật, 3 thử nghiệm ngẫu nhiên kết hợp hóa trị và xạ trị sau phẫu thuật đã cho thấy lợi ích về tỷ lệ sống sót. đáng kể so với phẫu thuật đơn thuần.

2.1. Nghiên cứu INT 0116

Thử nghiệm lớn nhất của Hoa Kỳ, INT 0116, cung cấp dữ liệu thuyết phục nhất cho hóa xạ trị sau phẫu thuật triệt để, đặc biệt là khi các kỹ thuật xạ trị hiện đại được sử dụng đồng thời với 5FU. để giúp tăng độ nhạy cảm với bức xạ.

Nghiên cứu được thực hiện trên 556 bệnh nhân sau phẫu thuật cắt dạ dày tận gốc (T1-4, N0-1), bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm, một nhóm theo dõi đơn thuần và một nhóm điều trị bổ trợ. hóa trị kết hợp. Đa số bệnh nhân có u T3, T4 (68 và 69%) và 85% có di căn hạch. Tỷ lệ sống không bệnh 3 năm (48% >< 31%) và tỷ lệ sống 3 năm (50% >< 41%) và tỷ lệ sống trung bình dài hơn đáng kể (36 >< 27 tháng). Lợi ích này được duy trì khi theo dõi lâu hơn (tỷ lệ sống sau 5 năm 43% >< 28%).

Ở nhóm hóa xạ trị, độc tính độ 3 và 4 xảy ra lần lượt ở 41% và 32% bệnh nhân, trong khi 3 bệnh nhân (chiếm 1%) tử vong do nhiễm độc liên quan đến điều trị. Các biến cố bất lợi cấp độ 3 trở lên phổ biến nhất là huyết học (54%), tiêu hóa (33%), nhiễm trùng (6%), thần kinh (4%). Trong nghiên cứu INT0116, hóa xạ trị được thực hiện với 5FU bolus tĩnh mạch hoặc truyền liên tục. Vì vậy, capecitabine uống hàng ngày cũng thường được lựa chọn vì tính tiện lợi cho bệnh nhân.

Lựa chọn bệnh nhân

Việc lựa chọn bệnh nhân điều trị bổ trợ sau phẫu thuật triệt căn ung thư dạ dày là không rõ ràng. Có tranh cãi đặc biệt ở nhóm bệnh nhân giai đoạn IB (T2N0). Các tác giả cho rằng bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến dạ dày giai đoạn IB-IIA và có ≥ 2 yếu tố nguy cơ (>60 tuổi, kích thước u >5 cm, u ở vị trí cao, mô học cao) tiên lượng sống sau 5 năm < 76 % và nhóm này cũng được khuyến cáo hóa trị bổ trợ và xạ trị

Hóa trị bổ trợ theo nghiên cứu INT 0116 được thực hiện trên bệnh nhân sau cắt dạ dày tận gốc

Hóa trị bổ trợ:

Trong một phân tích tổng hợp 34 thử nghiệm so sánh hóa trị bổ trợ với phẫu thuật đơn thuần được tiến hành ở cả Châu Á và Phương Tây, nguy cơ tử vong đã giảm 15% ở những bệnh nhân được hóa trị bổ trợ.

Các phác đồ bao gồm epirubicin, cisplatin và FU (ECF); capecitabine cộng với oxalipatin (phác đồ Xlox) hoặc TS-1

TS-1 là một loại thuốc 5FU dạng uống có chứa 3 thành phần khác nhau: florafur (tegafur), gimeracil (5-chloro-2,4 dihydropyridin, chất ức chế mạnh DPD (dihydropyrimidine dehydrogenase) và oteracil (ức chế quá trình phosphoryl hóa FU trong ruột) .

Lợi ích của điều trị TS-1 đã được chứng minh trong thử nghiệm ACTS-GC của Nhật Bản, trong đó 1059 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn II hoặc III đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ hạch D2 được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm, 1 nhóm điều trị TS-1 (80 đến 120 mg/ngày). ngày trong 4 tuần, chu kỳ 6 tuần, điều trị 1 năm) và 1 nhóm duy nhất để theo dõi. Tỷ lệ sống sót chung trong 5 năm tăng đáng kể ở nhóm điều trị TS-1 (72% so với 61%). Trong khi đó, tỷ lệ sống toàn bộ 5 năm trong các thử nghiệm INT0116 và MAGIC chỉ là 43% so với 28% và 36% so với 28%.

Những kết quả này cho thấy điều trị TS-1 một năm sau phẫu thuật là phương pháp điều trị bổ trợ tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư dạ dày ở Đông Á. Rất khó để biết liệu điều trị TS-1 bổ trợ (như đã được chứng minh trong thử nghiệm ACTS-GC) có thể được suy ra cho các nhóm dân cư khác ngoài người Nhật Bản hay không. Ngoài Nhật Bản, các nước châu Âu cũng thông qua phương pháp điều trị ung thư dạ dày giai đoạn cuối. Hiện loại thuốc này cũng đã được cấp phép lưu hành tại Việt Nam.

2.2. Thử nghiệm CLASSIC

Thử nghiệm đa trung tâm CLASSIC được tiến hành ở Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan. Tổng số 1035 bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn II, IIIA, IIIB được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: một nhóm được điều trị sau phẫu thuật 8 chu kỳ capecitabine (1000mg/m2 x 2 lần/ngày từ ngày 1 đến ngày 14, chu kỳ 21 ngày). ) phối hợp oxaliplatin (130mg/m2 ngày 1) và nhóm còn lại chỉ nạo vét hạch D2 đơn thuần. 67% bệnh nhân hoàn thành 8 đợt hóa trị theo kế hoạch và các tác dụng phụ (phổ biến nhất là giảm bạch cầu, buồn nôn, nôn, giảm tiểu cầu và chán ăn) làm thay đổi quá trình điều trị. ở 90% bệnh nhân. Mặc dù vậy, sau thời gian theo dõi trung bình là 34 tháng, nhóm hóa trị đã cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót sau 3 năm không bệnh (74% so với 59%) và tỷ lệ sống sót chung (83% so với 69%). nghiên cứu và phác đồ Xelox cũng được nhiều trung tâm áp dụng, trong đó có Việt Nam.

Tóm lại

Đối với bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn sớm, sau cắt dạ dày triệt căn nên được hóa xạ trị hoặc hóa trị bổ trợ. Tùy theo tình trạng bệnh, sức khỏe chung, các bệnh lý đi kèm…các bác sĩ sẽ chọn phương án phù hợp nhất có thể là hóa trị đơn thuần hoặc hóa xạ trị đồng thời.